Làm thế nào để tăng hàm lượng công nghệ cao trong sản phẩm công nghiệp hỗ trợ?
Đóng góp vào hàm lượng công nghệ cao trong từng sản phẩm mới là giải pháp trọng tâm mà công nghiệp hỗ trợ Việt Nam cần hướng tới.
Chưa đến 10% doanh nghiệp sử dụng robot trong dây chuyền sản xuất
Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong nước còn đơn giản, hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm.
Tỷ lệ nội địa hóa các ngành công nghiệp còn thấp, đơn cử ngành điện tử chỉ từ 5-10%; ngành ô tô từ 7-10%; ngành dệt may, da giày từ 45-50%. Các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam còn nhiều hạn chế về năng lực tổ chức quản lý sản xuất và công nghệ kỹ thuật; thiếu nguồn lực để đổi mới; chưa đủ năng lực cung cấp linh kiện và phụ tùng có hàm lượng công nghệ cao, kỹ thuật phức tạp đáp ứng các yêu cầu để tham gia sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu.
Nhìn nhận về thông tin chỉ có 10% doanh nghiệp áp dụng công nghệ, robot, bà Trần Thị Lan Anh- Tổng thư ký Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chỉ ra, hiện nay, doanh nghiệp đầu chuỗi như Samsung thì công nghệ là yêu cầu phải có, nhưng với doanh nghiệp Việt thì đây là rào cản vì kỹ năng, năng lực đáp ứng yêu cầu tham gia vào chuỗi còn khiêm tốn.
Bên cạnh đó, tỷ lệ nội địa hóa phản ánh mức độ tham gia chuỗi cung ứng của doanh nghiệp trong nước. Mặc dù các ngành công nghiệp dệt may, da giày, đồ gỗ, điện thoại di động, điện tử và máy tính, phương tiện vận tải và phụ tùng… được cho là đã gia nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng không được đánh giá cao do tỷ lệ nội địa hóa trong nước chưa nhiều.
Hiện tỷ lệ đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam là dưới 0,5% doanh thu, trong khi Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc 10%. Tỷ lệ đổi mới máy móc, thiết bị hàng năm chỉ đạt khoảng 10% trong 5 năm qua (các nước khác trong khu vực có khoảng 15-20%).
Do đó, doanh nghiệp trong nước và cả doanh nghiệp FDI phụ thuộc nhiều vào việc nhập khẩu nguyên vật liệu, các sản phẩm trung gian, máy móc thiết bị sản xuất; đây là nguyên nhân dễ dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa thấp. Các ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực như dệt may, da giày, điện tử nhập khẩu từ 70% đến 90% nguyên liệu. Một hướng khảo sát khác cho thấy, có 23% doanh nghiệp Việt Nam đã giới thiệu sản phẩm mới trong 3 năm trở lại đây, cũng là mức trung bình so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, một tỷ lệ lớn của việc đổi mới sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam là nhằm cắt giảm chi phí, rất ít trong số đó là để giới thiệu những tính năng hoàn toàn mới. Đồng thời, chỉ có 4% doanh nghiệp nước ta mua bằng sáng chế để phát triển sản phẩm, bằng khoảng 1/3 đến ½ so với Philippin, Thái Lan và Malaysia.
Chia sẻ về nội dung này, bà Đỗ Thị Thúy Hương- Phó chủ tịch Hiệp hội công nghiệp hỗ trợ cho hay, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam chủ yếu quy mô vừa và nhỏ, yếu về vốn và công nghệ; trình độ quản trị sản xuất còn thấp. Để trở thành nhà cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia cần vượt qua rất nhiều hạng mục tiêu chí, đó là bộ chỉ số mà doanh nghiệp phải nỗ lực như Samsung có 4 bộ chỉ số về đảm bảo chất lượng, an toàn an ninh, kiểm soát minh bạch, đảm bảo chỉ số sản xuất. Tương tự, các hãng khác của Hoa Kỳ, Nhật Bản… cũng đều quy định như vậy.
“Nhiều doanh nghiệp mặc dù tham gia vào chương trình tư vấn cải tiến năng lực của Bộ Công Thương nhưng không phải doanh nghiệp nào có thể trở thành nhà cung ứng. Điều này đòi hỏi cần sự nỗ lực hơn nữa từ phía doanh nghiệp, hỗ trợ bộ ngành và tập đoàn đa quốc gia để doanh nghiệp Việt tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu”- bà Hương khuyến nghị.
Khơi thông điểm nghẽn hướng tới trọng tâm cần ưu tiên
Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng nhiều chuyên gia kinh tế và các doanh nghiệp cũng tin tưởng nếu được quan tâm, đầu tư đúng mức, công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam sẽ phát triển theo hướng hiện đại, có hàm lượng công nghệ cao, không chỉ đủ phục vụ trong nước mà còn đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
Các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ “Made in VietNam” đã được nhiều tập đoàn lớn của thế giới đang đầu tư tại Việt Nam, như Samsung, LG, Apple, Honda, Toyota,... tin dùng và trở thành nhà cung ứng một số sản phẩm công nghiệp hỗ trợ phục vụ chuỗi sản phẩm công nghiệp chính.
Đề cao vai trò của công nghệ trong việc nâng cao năng lực của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, ông Huy Nguyễn - Phó Chủ tịch Hiệp hội Chuỗi khối Việt Nam - đồng sáng lập và Chủ tịch tại KardiaChain - cho biết, các nhà sản xuất lớn đều đã xây dựng chuỗi cung ứng hoàn toàn tự động.
Thực tế cho thấy, một số doanh nghiệp sản xuất linh kiện của Việt Nam có năng lực tốt ở các lĩnh vực như: Sản xuất khuôn mẫu các loại; Linh kiện xe đạp, xe máy; Linh kiện cơ khí tiêu chuẩn; Dây cáp điện; Linh kiện nhựa - caosu kỹ thuật; Săm lốp các loại… Các sản phẩm này đã đáp ứng tốt nhu cầu trong nước và được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới.
Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước cũng ngày càng tích cực áp dụng các tiêu chuẩn, công cụ quản lý hiện đại vào sản xuất, chế tạo, trong đó đã hình thành và phát triển được các tập đoàn kinh tế lớn hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp cơ bản, vật liệu, cơ khí chế tạo như: Vingroup, Trường Hải, Thành Công.., đã tạo nền tảng cho ngành công nghiệp hỗ trợ, giúp các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam tham gia vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Theo ông Ngô Khải Hoàn - Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp, việc thúc đẩy mạnh công nghiệp, trong đó có công nghiệp hỗ trợ vẫn là trọng tâm cần ưu tiên. Do vậy, cần làm rõ điểm nghẽn, vướng mắc, ứng dụng khoa học công nghệ trong việc nâng cao năng lực, cải thiện sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời gian tới. Thời gian qua, Bộ Công Thương đã và đang nghiên cứu thêm các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho các doanh nghiệp làm công nghiệp hỗ trợ, đồng thời phối hợp xây dựng các nhà máy thông minh thông qua hợp tác với các tập đoàn đa quốc gia triển khai đào tạo quản lý cấp trung, mở ra cơ hội hợp tác với doanh nghiệp đầu chuỗi lớn khác.