Lê Quảng Ba - vị tướng huyền thoại miền biên viễn
Huyền thoại về ông bắt đầu từ những câu chuyện tiễu phỉ ở vùng Lục Khu (1938 - 1940) đậm chất anh hùng cho đến khi ông làm Tư lệnh Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, giúp quân giải phóng và nhân dân Trung Quốc giải phóng Biên khu Điền Quế (Long - Ung - Khâu Châu) hoàn thành thắng lợi trở về, kịp thời cùng quân dân Cao Bằng đánh tan 20 vạn tàn quân Tưởng khi chúng tràn qua biên giới, khiến kẻ thù phải kinh ngạc.
Thiếu tướng Lê Quảng Ba (tên thật là Đàm Văn Mông, sinh năm 1915, ở Nà Nghiềng, xã Sóc Hà (Hà Quảng), vùng đất giàu truyền thống văn hóa và phong trào đấu tranh cách mạng, nơi sớm thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của huyện Hà Quảng (ngày 5/6/1931). Tháng 5/1932, khi mới 17 tuổi ông đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 5/1936 là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa đầu tiên. Năm 1938 ông và đồng chí Hoàng Sâm lên vùng cao Lục Khu vận động đồng bào xây dựng cơ sở cách mạng. Những cuộc đấu trí, đấu lực, đấu súng, đấu võ uống rượu của hai ông nhằm khống chế, thu phục bọn trùm phỉ khét tiếng đã trở thành giai thoại hào hùng, lan truyền rộng rãi trong nhân dân. Dẹp yên bọn phỉ, cả vùng Lục Khu trở thành địa bàn thuận lợi để thông đường sang Trung Quốc, bắt liên lạc với bộ phận lãnh đạo Trung uơng ở hải ngoại.
Năm 1940 ông được cử sang Tĩnh Tây học Trường Quân sự Đệ tứ chiến khu. Tại đây, ông gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và đoàn cán bộ hải ngoại. Cảm phục tinh thần yêu nước của chàng trai dân tộc Tày, Bác Hồ đặt bí danh cho ông là Lê Quảng Ba và giao nhiệm vụ đưa 40 anh em đang học ở Tĩnh Tây về nước, rồi quay trở lại đón Bác. Nhờ thông thạo địa hình vùng biên giới, ngày 28/1/1941, Lê Quảng Ba đưa lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí: Phùng Chí Kiên, Trần Quý Cáp, Thế An, Hoàng Văn Lộc vượt mốc 108 về Pác Bó (Hà Quảng) xây dựng căn cứ địa kháng chiến, mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam.
Ở Pác Bó, ngoài việc tổ chức nơi ăn ở và bảo vệ an toàn cho Bác, Lê Quảng Ba với trọng trách là ủy viên Ban Tỉnh ủy lâm thời, Bí thư Huyện ủy Hà Quảng trực tiếp xây dựng thí điểm Mặt trận Việt Minh và các đội vũ trang tự vệ, tổ chức tiếp đón và bảo vệ các đại biểu về dự Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 quyết định chủ trương sách lược đấu tranh giải phóng dân tộc. Hà Quảng trở thành châu Việt Minh hoàn toàn đầu tiên rồi nhanh chóng lan ra cả tỉnh.
Tháng11/1941, Đội du kích Pác Bó được thành lập do Lê Quảng Ba làm đội trưởng, Lê Thiết Hùng làm chính trị viên, những câu khẩu lệnh đầu tiên của quân đội do Bác Hồ soạn thảo như: nghiêm, nghỉ (lập chỉnh), bên phải quay, bên trái quay… bắt đầu hình thành từ đây và phiên âm ra tiếng Việt, được Lê Quảng Ba huấn luyện thực hành thuần thục, tạo tiền đề cho việc xây dựng điều lệnh đội ngũ sau này.
Năm 1944, với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào du kích và lực lượng vũ trang cách mạng, Bác Hồ xác định: Cần phải thành lập đội quân chính quy chủ lực làm nòng cốt “việc này giao cho chú Văn phụ trách”, anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) đã trao đổi với Lê Quảng Ba lúc này là Ủy viên Thường vụ liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng phụ trách công tác quân sự, bàn kế hoạch thực hiện, thống nhất về cơ cấu số lượng và trực tiếp lựa chọn nhân sự (34 chiến sĩ đầu tiên) vào Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân.
Năm 1945, thực hiện chủ trương mở rộng khu căn cứ địa cách mạng, Lê Quảng Ba đã trực tiếp chỉ huy một đơn vị vũ trang tuyên truyền (gồm 54 đồng chí) tây tiến sang Hà Giang xây dựng cơ sở quần chúng cách mạng, thúc đẩy thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa.

Thiếu tướng Lê Quảng Ba.
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, đang là khu trưởng khu Hà Nội trực tiếp tiễn Bác Hồ lên đường sang Pháp nhằm tìm cách cứu vãn hòa bình, tránh chiến tranh, Lê Quảng Ba được giao nhiệm vụ là đặc phái viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo giải quyết các vụ xung đột ở Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng… xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chiến khu 1 tách thành ba chiến khu 1, 10, 12 do Lê Quảng Ba là Khu trưởng khu 12 đảm nhiệm các tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Quảng Ninh.
Sau Chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, để tập trung sự chỉ đạo chiến lược chiến khu 1 và 12 sáp nhập thành Liên khu 1, Lê Quảng Ba làm Tư lệnh liên khu, tác chiến trên một địa bàn chiến lược trọng yếu, có các cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng chỉ huy đóng quân; nơi thử sức quyết liệt nhất trước âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp; cũng là nơi chứng kiến sự trưởng thành, lớn mạnh và đi đến thắng lợi quyết định của đường lối chiến tranh nhân dân.
Năm 1949, bên kia biên giới cuộc nội chiến Quốc - Cộng đang trên đà đến hồi kết, cánh quân Nam Hạ chuẩn bị đánh xuống phía Nam. Quân giải phóng Trung Quốc đề nghị Việt Nam giúp mở rộng căn cứ địa ở vùng Ung - Châu - Khiêm giáp giới ba tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh.
Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Bác Hồ, Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập Bộ Chỉ huy Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn (tháng 5 - 10/1949) do Lê Quảng Ba làm tư lệnh, phối hợp với Giải phóng quân Trung Quốc giải phóng biên khu Điền Quế - Việt Quế. Liên khu 1 thành lập một lực lượng đặc biệt do các đồng chí Thanh Phong, Phó Tư lệnh Liên khu 1; Nam Long, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 59; Long Xuyên, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28 đều là con em các dân tộc Cao Bằng (cùng các đồng chí Chu Huy Mân, Đỗ Trình là chính trị viên)… chỉ huy hai cánh quân sang giúp bạn. Trước khi lên đường, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp căn dặn và đưa cho Lê Quảng Ba mảnh giấy tự tay người viết: “Cẩn thận, bí mật, đoàn kết, hữu nghị, thắng lợi”. Điều này thể hiện sự quan tâm sâu sắc và niềm tin tưởng lớn lao của Bác Hồ dành cho vị tướng cầm quân ra trận. Niềm tin tưởng và tự hào ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ, chiến sĩ vượt dãy núi Thập Vạn Đại Sơn muôn trùng hiểm trở, nhanh chóng giúp bạn đánh tan 5 trung đoàn quân Quốc dân Đảng, giải phóng một vùng rộng lớn Long Châu, Ninh Minh, Bằng Tường, Phòng Thành, Đông Hưng, Khâm Châu...
Dưới sự chỉ huy tài tình của Tư lệnh Lê Quảng Ba và tinh thần đoàn kết chiến đấu quả cảm của cán bộ, chiến sĩ, Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả, được cả hai nước ghi nhận, đánh giá cao: Thắng lợi về quân sự đã quan trọng, nhưng thắng lợi về chính trị còn lớn hơn nhiều. Hình ảnh đội quân tình nguyện Việt Nam: Áo quần nâu, mũ mõm trâu, đánh phi thường, ác liệt vẫn còn đọng mãi trong tâm trí của người dân địa phương. Lê Quảng Ba - Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn và những cán bộ, chiến sĩ đã chiến đấu, hy sinh trên đất bạn Trung Quốc để lại ấn tượng sâu sắc trong mối quan hệ đoàn kết tương thân, tương ái giữa nhân dân hai nước Việt - Trung.
Tháng 10/1949, vừa hoàn thành nghĩa vụ quốc tế trở về, Lê Quảng Ba kịp thời cùng quân, dân Cao Bằng đánh tan 20 vạn tàn quân quốc dân Đảng khi chúng tràn qua biên giới. Với cương vị là Tư lệnh Liên khu Việt Bắc (do Liên khu 1 và 10 sáp nhập lại gồm 15 tỉnh trung du miền núi Việt Bắc, Đông Bắc), ông đã cùng chính ủy Chu Huy Mân nhanh chóng tổ chức hội nghị lần thứ nhất liên khu Việt Bắc triển khai “Đề án công tác năm 1950”, phát động phong trào thi đua “rèn cán, chỉnh quân”, nâng cao sức chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân. Các trung đoàn 28, 36, 72, 74 của liên khu dần chuyển thành các đơn vị chủ lực của bộ chuẩn bị cho Chiến dịch Biên giới 1950, mà liên khu Việt Bắc vừa là chiến trường chính, vừa là hậu phương lớn trực tiếp đóng góp sức ngươì̀, sức của cho tiền tuyến. Đóng góp của Liên khu được Bác Hồ khen ngợi “Là đơn vị kiểu mẫu trong việc động viên, nhân lực, vật lực, tài lực cho kháng chiến”.
Tháng 10/1950, Chiến dịch Biên giới thắng lợi đã mở ra cục diện mới, quân ta chuyển từ thế phòng ngự cầm cự sang thế chủ động phản công. Tháng 5/1951, Lê Quảng Ba được giao nhiệm vụ tổ chức thành lập Đại đoàn 316 do ông làm Đại đoàn trưởng, triển khai tác chiến thọc sâu vào vùng tạm chiếm tiêu diệt đồn bốt địch, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá tề trừ gian, xây dựng các khu du kích, nối liền khu giải phóng Việt Bắc với các vùng xung quanh, tạo bàn đạp tiến quân lên Tây Bắc. Từ chiến trường Tây Bắc, Đại đoàn 316 đưa 1/3 quân số và vũ khí trang bị tham gia chiến dịch thượng Lào giải phóng Phong Sa Lỳ, Sầm Nưa. Bộ phận còn lại tiếp tục bao vây Nà Sản, giải phóng Lai Châu, Mộc Châu xây dựng thế trận vững vàng trên địa bàn núi rừng Tây Bắc.
Năm 1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại đoàn 316 là đơn vị chủ công đảm nhiệm đánh cụm cứ điểm kiên cố C1, C2, A1. Khó khăn lớn nhất là hệ thống hầm ngầm bí mật trên đồi A1. Lê Quảng Ba trực tiếp tìm hiểu đồng bào địa phương nghiên cứu kỹ địa hình, rồi bàn với chính ủy Chu Huy Mân đề xuất phương án đào hầm đánh thẳng vào “ruột” điểm cao A1. Phương án được duyệt nhưng việc đào hầm dưới tầm hỏa lực địch đầy khó khăn, nguy hiểm, gần nửa tháng liên tục không kể ngày đêm… Nếu nói mạng lưới hầm hào vây lấn của ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ là một kỳ tích thì đường hầm xuyên đồi A1 là đỉnh cao của kỳ tích là lối đánh sáng tạo, bất ngờ, đậm chất dân dã phát sinh từ thực tế chiến đấu… Cả ngàn ki lô gam thuốc nổ được chuyển vào đường hầm đúng giờ G quy định, tiếng bộc phá sẽ là hiệu lệnh cho đợt tiến công mới. 20h30’ đêm 6/5/1954, Đại đoàn trưởng Lê Quảng Ba ra lệnh nổ bộc phá, cả đồi A1 rung chuyển, kẻ địch bất ngờ choáng váng, quân ta chớp thời cơ xông lên chiếm giữ đồi A1, nhanh chóng triển khai tiến công tiêu diệt đồi C1, C2 và các ổ đề kháng cuối cùng. Ngày 7/5/1954, Chiến dịch Điên Biên Phủ toàn thắng.

Ngôi trường mang tên vị tướng Lê Quảng Ba tại xã Sóc Hà (Hà Quảng). Ảnh: Thế Vĩnh
Hòa bình lập lại ở miền Bắc nhưng cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam vẫn đang tiếp tục, Đảng và Nhà nước ta quyết định thành lập các quân khu, Lê Quảng Ba được phong quân hàm Thiếu tướng Tư lệnh Quân khu Việt Bắc. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, ông được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân tộc Trung ương, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc của Chính phủ, đại biểu Quốc hội khóa 3, 4, 5…
Dù ở cương vị nào, dù hoàn cảnh khó khăn đến đâu “Ông cũng tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, tận trung với nước, tận hiếu với dân” (danh nhân quân sự Việt Nam). Ông luôn trăn trở với quê hương cội nguồn cách mạng và các vấn đề dân tộc miền núi “Miền núi phải được xây dựng mạnh về quốc phòng. Các phương hướng, nhiệm vụ kinh tế, chính trị đều nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp cho yêu cầu củng cố về quốc phòng” (Lê Quảng Ba không ngừng tăng cường và củng cố căn cứ địa miền núi - Nhà xuất bản dân tộc Việt Bắc 1967).
Năm 1988, vị tướng huyền thoại miền biên viễn đã ra đi sau lễ mừng thọ 73 tuổi (chữ khang); theo tập quán Tày, Nùng chữ “khang” được coi là viên mãn. Điếu văn truy điệu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: “Đồng chí Lê Quảng Ba là cuộc đời liên tục chiến đấu gian khổ, hy sinh vì độc lập, tự do… Đồng chí là một trong những cán bộ được Bác Hồ rèn luyện, giáo dục và tin yêu, được Đảng và Nhà nước giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, được đồng bào các dân tộc cả nước quý mến”.
Ông đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cùng nhiều phần thưởng cao quý khác. Tên ông được đặt cho ngôi trường ở xã Sóc Hà, quê hương nơi sinh thành. Ở thành phố Vĩnh Yên có một đường phố mang tên ông. Tên tuổi Lê Quảng Ba mãi mãi gắn liền với Pác Bó, Chiến khu Việt Bắc, Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, Điện Biên Phủ và cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kỳ gian khổ nhưng nhất định thắng lợi của nhân dân Việt Nam.
Nguồn Cao Bằng: https://baocaobang.vn/le-quang-ba-vi-tuong-huyen-thoai-mien-bien-vien-3175954.html