Lịch sử Hà Nội - Nghìn năm ký ức kinh thành Thăng Long
Nằm ở trung tâm của đồng bằng sông Hồng, Thăng Long-Hà Nội được xem là vùng đất 'địa linh-nhân kiệt,' nơi hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để trở thành trung tâm văn hóa-kinh tế-chính trị của cả nước.

Bản đồ Hà Nội. (Nguồn: Hanoi.gov.vn)
Nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng sông Hồng, Thăng Long-Hà Nội được xem là vùng đất “địa linh-nhân kiệt,” nơi hội tụ nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển thành trung tâm văn hóa-kinh tế-chính trị của cả nước.
Trải qua hơn 1.000 năm lịch sử, Hà Nội đã trở thành một kho tàng chứa hàng ngàn di tích lịch sử, văn hóa.
Sự đan xen của quá khứ và hiện tại đã khiến Hà Nội mang một sức hấp dẫn đặc biệt của miền đất kinh kỳ, nơi những mái ngói cổ kính nằm gần những công trình kiến trúc hiện đại, nơi những phong tục xa xưa vẫn được bảo tồn cùng với những nét văn hóa mới mẻ của ngày hôm nay.
Vị trí địa lý
Hà Nội có vị thế “rồng cuộn, hổ ngồi,” nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng, nằm tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hòa Bình ở phía nam, các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên ở phía đông và Phú Thọ ở phía tây.
Hà Nội cũng là trung tâm nơi các mạch núi Tây Bắc và Đông Bắc hội tụ (Hoàng Liên Sơn, Con Voi, Tam Đảo, các cánh cung Đông Bắc), cũng là nơi các dòng sông hội tụ để rồi phân tỏa về phía Biển Đông (sông Đà, Thao, Lô, Chảy, Cầu).
Hà Nội Nội có diện tích tự nhiên 920,97 km2, kéo dài theo chiều Bắc-Nam 53km và thay đổi theo chiều Đông Tây từ gần 10km (phía Bắc huyện Sóc Sơn) đến trên 30km (từ xã Tây Tựu, Từ Liêm đến xã Lệ Chi, Gia Lâm).
Hà Nội được hình thành từ châu thổ sông Hồng, nét đặc trưng của vùng địa lí thành phố Hà Nội là “thành phố sông hồ” hay “thành phố trong sông," bởi các con sông lớn nhỏ đã chảy miệt mài hàng vạn năm đem phù sa về bồi đắp nên vùng châu thổ phì nhiêu này.
Hiện nay, có 7 sông chảy qua Hà Nội gồm sông Hồng, sông Đuống, sông Đà, sông Nhuệ, sông Cầu, sông Đáy, sông Cà Lồ. Trong đó, đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội dài tới 163km (chiếm 1/3 chiều dài của con sông này chảy qua lãnh thổ Việt nam).
Trong nội đô ngoài 2 con sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu, đến nay vẫn còn tới hàng trăm hồ đầm lớn nhỏ được phân bổ ở khắp các phường, xã của thủ đô Hà Nội. Nổi tiếng nhất là các hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, Quảng Bá, Trúc Bạch, Thiền Quang, Bảy Mẫu, Thanh Nhàn, Linh Đàm, Yên Sở, Giảng Võ, Đồng Mô, Suối Hai…
Những hồ đầm này của Hà Nội không những là một kho nước lớn mà còn là hệ thống điều hòa nhiệt độ tự nhiên làm cho vùng đô thị nội thành giảm bớt sức hút nhiệt tỏa nóng của khối bêtông, sắt thép, nhựa đường và các hoạt động của các nhà máy…
Hồ đầm của Hà Nội không những tạo ra cho thành phố khí hậu mát lành - tiểu khí hậu đô thị mà còn là những danh lam thắng cảnh, những vùng văn hóa đặc sắc, lâu đời của Thăng Long-Hà Nội.
Hà Nội có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông lạnh ít mưa, mùa hè nóng nhiều mưa. Hàng năm, chịu ảnh hưởng của khoảng 25-30 đợt không khí lạnh. Nhiệt độ trung bình năm tuy không dưới 23 độ C, nhiệt độ trung bình tháng 1 là dưới 18 độ C và biên độ năm của nhiệt độ trên 12 độ C).
Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 và chiếm khoảng 80% lượng mưa toàn năm. Mùa ít mưa chủ yếu là mưa nhỏ và mưa phùn kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, trong đó tháng 12 hoặc tháng 1 có lượng mưa ít nhất.
Hà Nội có mùa Đông lạnh rõ rệt so với các địa phương khác ở phía Nam. Số ngày nhiệt độ thấp nhiều hơn đáng kể, nhất là số ngày rét đậm, rét hại nhiều hơn, mùa lạnh kéo dài hơn và mưa phùn cũng nhiều hơn. Đặc biệt, vào tháng 1/1955, Hà Nội đã trải qua một mùa Đông giá buốt nhất trong lịch sử, với nhiệt độ xuống đến 2,7 độ C.
Nhờ có mùa Đông lạnh, trong cơ cấu cây trồng của Hà Nội cũng như đồng bằng Bắc Bộ có cả một vụ Đông độc đáo ở miền nhiệt đới.

Hồ Hoàn Kiếm ngày nay. (Ảnh: TTXVN)
Lịch sử hình thành
Năm 1010: Chiếu dời đô
Mùa Xuân năm 1010, vua Lý Thái Tổ ban “Chiếu dời đô,” chuyển kinh đô của nhà nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La (Hà Nội), và tháng 7 năm Canh Tuất đổi tên thành Thăng Long.
Sách "Đại Nam nhất thống chí" do Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn ghi lại: "Hán là bộ Giao Chỉ, thời thuộc Đường là phủ An Nam đô hộ, phủ trị đóng ở thành Đại La. Năm Thuận Thiên thứ 1 (1010) vua Lý Thái Tổ xuống chiếu dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La đổi tên là thành Thăng Long, thiết đặt phủ Ứng Thiên thống nhiếp."
Trong “Chiếu dời đô,” nhà vua nhận thấy vùng đất này "ở vào nơi trung tâm trời đất, có cái thế rồng cuộn hổ ngồi, đúng với vị trí giữa Nam, Bắc, Đông, Tây, thuận theo chiều hướng núi sông quay vào, ngoảnh ra, đất rộng và bằng, cao và thoáng… Xem khắp đất Việt, chỉ có đây là nơi thắng địa. Thật là nơi hội tụ quan trọng của bốn phương, nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời."
Với việc dời đô về Hà Nội, nhà vua “muốn đóng đô ở nơi trung tâm mưu đồ nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu, trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân.”
Từ năm 1010 -1788: Thời kỳ thịnh vượng của vùng đất Kẻ Chợ
Sự kiện dời đô năm 1010 đã đặt viên gạch đầu tiên cho một nền tảng văn hóa-lịch sử lâu dài của dân tộc, đặc biệt của người dân kinh thành Thăng Long. Đây cũng là thời kỳ ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, xã hội, đặc biệt là thời kỳ phát triển kinh tế hàng hóa đô thị trong thế kỷ XVII-XVIII, khi người Thăng Long được gọi là người Kẻ Chợ.
Thời kỳ này, Thăng Long liên tục giữ vai trò kinh đô của nước Đại Việt, tuy tên gọi có thay đổi như Đông Đô vào cuối đời Trần (1397) và Hồ (1400-1407), Đông Kinh thời Lê sơ (1428-1527) từ năm 1430, hay cái tên mang tính dân dã Kẻ Chợ.
Từ năm 1788-1881: Xuất hiện tên gọi Hà Nội
Dưới thời Tây Sơn, năm 1788, vua Quang Trung đóng đô ở Phú Xuân, rồi từ năm 1802, nhà Nguyễn chọn Phú Xuân-Huế làm kinh thành. Thăng Long trở thành thủ phủ của Bắc Thành, Cấm Thành và một phần Hoàng Thành. Bắc thành tương ứng với Bắc Bộ, nhưng thủ phủ vẫn là phủ Phụng Thiên, năm 1805, đổi là phủ Hoài Đức, gồm hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận.
Năm 1831, nhà Nguyễn thực hiện một công cuộc cải cách hành chính lớn, theo đó đổi các dinh, trấn thành tỉnh và lập tỉnh Hà Nội gồm 4 phủ: Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa, Lý Nhân, trong đó huyện Hoài Đức mở rộng thêm huyện Từ Liêm.
Sự kiện này cũng đánh dấu sự ra đời của tên gọi Hà Nội. Thành Hà Nội trở thành tỉnh thành của tỉnh Hà Nội và vẫn nằm trong sông về phía hữu ngạn sông Hồng.
Từ năm 1882-1945: Thời Pháp thuộc – Thủ đô của Liên bang Đông Dương
Ngày 19/7/1888, Tổng thống Pháp ra Sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội, chủ yếu trên cơ sở khu vực nội thành cũ thuộc 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận, bao gồm cả thành Thăng Long.
Ranh giới thành phố Hà Nội lúc đó được xác định phía Bắc đến sông Hồng, phía Nam đến khu vực Hào Nam, phía Tây đến Hồ Tây, phía Đông đến khu vực Lương Yên. Lấy vành đai đê quai La Thành và sông Hồng làm ranh giới.
Từ nhượng địa của Pháp bên bờ sông Hồng, thành phố Hà Nội được mở rộng dần, đến năm 1899 bao gồm hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận, một phần huyện Từ Liêm ở phía Tây và huyện Thanh Trì ở phía Nam. Năm 1903, vùng ngoại ô Hà Nội được mở rộng thêm về phía Đông, gồm một số xã thuộc tống Gia Thụy, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh.
Thời điểm này địa giới Hà Nội được xác định ranh giới bởi sông Đáy, sông Hồng và kênh Phủ Lý (theo Nghị định ngày 21/3/1890).
Năm 1896 tỉnh lị Hà Nội được chuyển về Cầu Đơ thuộc địa phận huyện Thanh Oai. Năm 1899 thành lập khu vực ngoại thành Hà Nội gồm các xã thuộc huyện Vĩnh Thuận nằm ngoài địa giới thành phố Hà Nội và một số xã thuộc huyện Từ Liêm, Thanh Trì đặt dưới quyền một viên Đốc lý người Pháp.
Đầu thế kỷ XX, thành phố Hà Nội được người Pháp đặt làm Thủ đô của Liên bang Đông Dương và tổ chức quy hoạch lại thành phố theo hướng hiện đại.
Năm 1902, để tránh trùng tên tỉnh Hà Nội và thành phố Hà Nội, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định đổi tên tỉnh Hà Nội thành tỉnh Cầu Đơ, năm 1904 lại đổi tỉnh Cầu Đơ thành tỉnh Hà Đông.
Năm 1914 thành phố Hà Nội được chia làm 8 khu, có ấn định ranh giới, đồng thời xóa bỏ khu ngoại ô Hà Nội với tư cách là một đơn vị hành chính riêng cho sáp nhập vào huyện Hoàn Long thuộc tỉnh Hà Đông.
Năm 1942 Toàn quyền Đông Dương cho sáp nhập huyện Hoàn Long vào thành phố Hà Nội, ngay sau đó lại tách vùng đất ngoại ô Hà Nội được nhượng cho Pháp ra khỏi tỉnh Hà Đông để thành lập Đại lý đặc biệt Hà Nội bao gồm huyện Hoàn Long và 22 xã thuộc phủ Hoài Đức.
Như vậy đến cuối thời kỳ Pháp thuộc, địa giới hành chính thành phố Hà Nội về cơ bản không thay đổi nhiều so với giai đoạn mới thành lập năm 1888, chủ yếu mở rộng thêm một số làng ở khu vực ven đô phía Nam và Đông Nam thành phố như Nam Đồng, Thái Hà, Khương Thượng, Quỳnh Lôi, Vĩnh Tuy…

Đông đảo nhân dân tập trung tại Quảng trường Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, sáng 2/9/1945. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Từ năm 1945-1975: Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Năm 1945, với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Hà Nội lại khôi phục vị thế Thủ đô của nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa, đặt trực tiếp dưới quyền chính phủ trung ương.
Ngày 14/5/1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ phê duyệt phân chia thành phố Hà Nội làm 17 Khu, mỗi khu có tên riêng, bao gồm Trúc Bạch, Đồng Xuân, Thăng Long, Đông Thành, Đông Kinh Nghĩa Thục, Hoàn Kiếm, Văn Miếu, Quán Sứ, Đại Học, Bảy Mẫu, Chợ Hôm, Lò Đúc, Hồng Hà, Long Biên, Đồng Nhân, Vạn Thái, Bạch Mai. Đồng thời chia ngoại thành Hà Nội làm 5 Khu gồm: Đống Đa, Đại La, Lãng Bạc, Đề Thám, Mê Linh.
Ngày 13/6/1949, Nghị quyết số 142/NQ-KC-HN của Ủy ban Kháng chiến hành chính Hà Nội quyết định phân chia khu vực nội thành Hà Nội làm 2 quận, lấy tên là Quận 1 và Quận 2; đồng thời chia ngoại thành Hà Nội làm 3 quận, lấy tên là Quận 4, Quận 5 và Quận 6.
Ngày 18/9/1950, Nghị định số 46-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã quyết định hợp nhất Quận 1 và Quận 2 nội thành Hà Nội thành một quận, lấy tên là quận Nội thành Hà Nội. Hợp nhất Quận 4, Quận 5, Quận 6 ngoại thành Hà Nội thành một quận, lấy tên là quận Ngoại thành Hà Nội.

Nhân dân nhiệt liệt đón chào lực lượng cơ giới Quân đội nhân dân Việt Nam tiến vào trong ngày tiếp quản Thủ đô, sáng 10/10/1954. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Hà Nội tiếp tục là Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ khi tiếp quản Thủ đô, ngày 10/10/1954, cùng với quá trình phát triển kinh tế-xã hội, Hà Nội đã qua 4 lần điều chỉnh địa giới: 1961, 1978, 1991, 2008.
Thời điểm này thành phố gồm 4 quận nội thành với 34 khu phố, khoảng 37.000 dân và 4 quận ngoại thành với 45 xã, khoảng 16.000 dân. Các quận thuộc Hà Nội được đánh số từ 1 đến 8.
Năm 1958, 4 quận nội thành bị xóa bỏ và thay thế bằng 12 khu phố, trong đó chia Quận 1 thành 3 khu phố: Hai Bà Trưng, Hàng Cỏ và Hoàn Kiếm; chia Quận 2 thành 3 khu phố: Cửa Đông, Hàng Bông và Hàng Đào; chia Quận 3 thành 3 khu phố: Ba Đình, Trúc Bạch và Văn Miếu; chia Quận 4 thành 3 khu phố: Bạch Mai, Bảy Mẫu và Ô Chợ Dừa.
Năm 1959, 8 khu phố khu nội thành được sắp xếp lại và Hà Nội có thêm 4 huyện ngoại thành, trong đó, sáp nhập khu phố Bảy Mẫu vào khu phố Hai Bà Trưng, hợp nhất 3 khu phố Cửa Đông, Hàng Bông và Hàng Đào thành khu phố Đồng Xuân, và hợp nhất 2 khu phố Văn Miếu và Ô Chợ Dừa thành khu phố Đống Đa.
Ngày 20/4/1961, Nghị quyết Quốc hội khóa II kỳ họp thứ 2 đã phê chuẩn việc mở rộng thành phố Hà Nội, theo đó sáp nhập vào thành phố Hà Nội 18 xã, 6 thôn và 1 thị trấn thuộc tỉnh Hà Đông; 29 xã và 1 thị trấn thuộc tỉnh Bắc Ninh; 17 xã và một nửa thôn của tỉnh Vĩnh Phúc; 1 xã thuộc tỉnh Hưng Yên.
Ngay sau đó ngày 31/5/1961 Hội đồng Chính phủ đã quyết định chia các khu vực nội thành và ngoại thành của thành phố Hà Nội. Cụ thể: thành lập 4 khu phố nội thành của Hà Nội gồm Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà, Đống Đa và 4 huyện ngoại thành là Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, Đông Anh.
Từ 1975: Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Sau khi Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Hà Nội tiếp tục trở thành Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngày 29/12/ 1978, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phê chuẩn mở rộng địa giới Hà Nội, trong đó sáp nhập thêm 5 huyện Ba Vì, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây của tỉnh Hà Sơn Bình cùng hai huyện Mê Linh, Sóc Sơn của tỉnh Vĩnh Phú.
Ngoài ra thêm 3 xã thuộc huyện Chương Mỹ, 7 xã thuộc huyện Quốc Oai, 4 xã thuộc huyện Thường Tín và 1 xã thuộc huyện Thanh Oai tỉnh Hà Sơn Bình cũng được sáp nhập về Hà Nội.
Ngày 3/1/ 1981, Hội đồng Chính phủ lại ra quyết định thống nhất gọi các đơn vị hành chính trực tiếp của thành phố trực thuộc trung ương là Quận, các tiểu khu thuộc Quận thống nhất gọi là Phường. Như vậy khu vực nội thành của Hà Nội thời điểm này gồm 4 quận là Ba Đình (15 phường), Đống Đa (24 phường), Hai Bà Trưng (22 phường) và Hoàn Kiếm (18 phường).
Ngày 12/ 8/1991 Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 9 lại quyết nghị điều chỉnh địa giới của thủ đô Hà Nội. Trong đó chuyển huyện Mê Linh của Hà Nội về tỉnh Vĩnh Phú; chuyển thị xã Sơn Tây và 5 huyện: Hoài Đức, Phúc Thọ, Đan Phượng, Ba Vì, Thạch Thất của Hà Nội về tỉnh Hà Tây. Hà Nội còn lại 4 quận nội thành là Ba Đình, Đống Đa, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng và 5 huyện ngoại thành là Đông Anh, Gia Lâm, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm.

Khu vực ngã 5 Đinh Tiên Hoàng - Cầu Gỗ - Hàng Đào- Hàng Gai - Lê Thái Tổ những năm 1960. (Ảnh: TTXVN)
Các năm 1995-1996 thành phố Hà Nội thành lập thêm 3 quận mới, cụ thể:
- Quận Tây Hồ thành lập năm 1995 trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 3 phường: Bưởi, Thụy Khuê, Yên Phụ thuộc quận Ba Đình và 5 xã: Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng thuộc huyện Từ Liêm.
- Quận Thanh Xuân thành lập năm 1996 trên cơ sở 5 phường: Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Thượng Đình, Kim Giang, Phương Liệt và một phần đất đai, dân số của 2 phường Nguyễn Trãi, Khương Thượng thuộc quận Đống Đa; xã Nhân Chính huyện Từ Liêm và xã Khương Đình thuộc huyện Thanh Trì.
- Quận Cầu Giấy thành lập năm 1996 trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 4 thị trấn: Cầu Giấy, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân, Mai Dịch và 3 xã: Dịch Vọng, Yên Hòa, Trung Hòa thuộc huyện Từ Liêm.
Năm 2003 thành phố Hà Nội thành lập thêm 2 quận mới là:
- Quận Long Biên thành lập trên cơ sở điều chỉnh diện tích tự nhiên và dân số của 10 xã: Thượng Thanh, Giang Biên, Ngọc Thụy, Việt Hưng, Hội Xá, Gia Thụy, Bồ Đề, Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối và 3 thị trấn: Gia Lâm, Đức Giang, Sài Đồng thuộc huyện Gia Lâm.
- Quận Hoàng Mai thành lập trên cơ sở điều chỉnh diện tích tự nhiên và dân số của 9 xã: Định Công, Đại Kim, Hoàng Liệt, Thịnh Liệt, Thanh Trì, Vĩnh Tuy, Lĩnh Nam, Trần Phú, Yên Sở, Tứ Hiệp thuộc huyện Thanh Trì và 5 phường Mai Động, Tương Mai, Tân Mai, Giáp Bát, Hoàng Văn Thụ thuộc quận Hai Bà Trưng[19].
Đặc biệt, ngày 29/5/2008, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Nghị quyết điều chỉnh địa giới hành chính thủ đô Hà Nội một lần nữa. Qua đó toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung thuộc huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình được sáp nhập về Hà Nội.
Ngày 27/12/2013, Chính phủ ra Nghị quyết 132/NQ-CP tách huyện Từ Liêm thành lập 2 quận mới là Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm.
Ngày 4/7/2023 Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về việc thành lập mới quận Đông Anh bao gồm 24 phường thuộc quận, đồng thời giao Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội hoàn tất hồ sơ trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Đến nay sau nhiều lần điều chỉnh, địa giới hành chính thành phố Hà Nội bao gồm 13 quận, 16 huyện và 1 thị xã. Trong đó 13 quận là Ba Đình, Hoàn Kiếm, Tây Hồ, Long Biên, Cầu Giấy, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hoàng Mai, Thanh Xuân, Hà Đông, Bắc Từ Liêm, Nam Từ Liêm, Đông Anh; 16 huyện gồm Ba Vì, Chương Mĩ, Đan Phượng, Gia Lâm, Hoài Đức, Mê Linh, Mĩ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Sóc Sơn, Thạch Thất, Thanh Oai, Thanh Trì, Thường Tín, Ứng Hòa và 1 thị xã Sơn Tây.
Tuy nhiên, dù trải qua một quá trình biến động phức tạp về địa giới hành chính, nhiều tên gọi của các địa danh cổ vẫn tồn tại cho đến ngày nay, đánh dấu một thời kỳ lịch sử lâu đời và phát triển rực rỡ của vùng đất Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay./.