Lĩnh án 17 năm tù vì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tòa án Nhân dân tỉnh vừa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Thái Thị N., sinh năm 1992, trú tại huyện TX về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ảnh minh họa.
Theo cáo trạng, trong thời gian công tác tại đội Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an huyện TX, Thái Thị N. có mối quan hệ quen biết với gia đình ông Hoàng Văn T. và bà Đỗ Thị V. (gọi tắt là ông T.). Biết gia đình ông T. có con gái là Hoàng Thị N. đã tốt nghiệp đại học nhưng chưa xin được việc làm. N. nói với ông T. là có người quen công tác ở Bộ Công an, nên có thể nhờ xin tuyển dụng vào ngành công an, đồng thời N. yêu cầu ông T. đưa tiền để làm chi phí xin tuyển dụng.
Theo đó, tháng 4-2014, N. nhận 200.000.000 đồng, không viết giấy biên nhận nhưng bà V. đã ghi vào sổ tay; ngày 31-10-2014, N. nhận 300.000.000 đồng, bà V. ghi vào sổ tay, đồng thời N. cũng ghi biên nhận vào sổ tay của bà V; tháng 1-2015, N. nhận 100.000.000 đồng, không viết giấy biên nhận nhưng bà V. đã ghi vào sổ tay; ngày 23-5-2015, N. nhận tiếp 150.000.000 đồng, không viết giấy biên nhận nhưng bà V. đã ghi vào sổ tay; ngày 15-6-2015, N. nhận tiếp 100.000.000 đồng, không viết giấy biên nhận nhưng bà V. đã ghi vào sổ tay; đồng thời bà V. đã cộng tổng số tiền mà N. đã nhận là 850.000.000 đồng rồi viết vào sổ tay của bà V., N. ký xác nhận về số tiền đã nhận. Đến ngày 29-10-2015, N. nhận 200.000.000 đồng và ghi biên nhận vào sổ tay của bà V. và ghi xác nhận vào sổ tay của bà V., với nội dung: “Tổng số tiền đã nhận từ 4-2014 đến 10-2015 là 1.050.000.000 đồng”. Ngày 7-11-2015, N. nhận 150.000.000 đồng ghi biên nhận vào sổ tay của bà V., đồng thời ghi xác nhận vào sổ tay của bà V. nhận 7 lần tiền là 1.200.000.000 đồng.
Do N. không xin được việc cho con gái như đã hứa nên ông T. và bà V. nhiều lần đòi tiền thì N. mới trả được 200.000.000 đồng, còn lại 1.000.000.000 đồng chưa trả.
Không dừng lại ở đó, trong thời gian N. đi học lớp liên thông từ trung cấp lên đại học do Học viện Cảnh sát Nhân dân liên kết mở tại TP Thanh Hóa, N. gặp vợ ông Lê Đình C. (cậu của N.) là bà Nguyễn Thị Phương L., ở TP Thanh Hóa nói là có thể xin việc cho con gái ông C. và bà L. vào ngành công an. Cũng vì do tin tưởng N. là con cháu trong nhà và cho rằng N. có mối quan hệ nên ông C. và bà L. đồng ý đưa tiền cho N.
Cụ thể, ngày 20-1-2017, N. nhận của ông C. và bà L. 400.000.000 đồng; ngày 21-2-2017, N. nhận 500.000.000 đồng; ngày 19-5-2017, N. nhận tiếp 300.000.000 đồng. Qua giám định chữ viết trong các giấy biên nhận N. hoàn toàn trùng khớp với nét chữ của N. Trong quá trình cơ quan chức năng điều tra, N. phải thừa nhận là đã nhận của ông C., bà L. tổng số tiền 1.200.000.000 đồng và hứa xin cho cho con gái ông bà được tuyển dụng vào ngành công an. Nhưng thực tế, N. không có khả năng xin tuyển dụng cho con gái ông C. và bà L., cũng không đưa tiền cho bất kỳ ai để xin việc; số tiền nhận của ông C. và bà L., N. đã chi tiêu cá nhân hết, đến nay không có khả năng thanh toán.
Như vậy đến nay, N. còn chiếm đoạt của ông T. và bà V. 1.000.000.000 đồng, ông C. và bà L. 1.200.000.000 đồng.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định bị cáo N. là người làm việc tại cơ quan pháp luật, có hiểu biết, có kiến thức nhất định về mặt pháp luật, lẽ ra phải sống tuân thủ luật pháp, làm gương cho mọi người. Tuy nhiên, N. lại lợi dụng sự thân thiết, sự tin tưởng của người bị hại để thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo thể hiện sự táo bạo, gây bức xúc cho người bị hại và quần chúng nhân dân, gây mất trật tự trị an, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân. Số tiền chiếm đoạt rất lớn, tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, vì vậy cần xử lý nghiêm để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Hội đồng xét xử tuyên án bị cáo Thái Thị N. phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, xử phạt 17 năm tù. Buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho ông T. và bà V. số tiền là 1.000.000.000 đồng; bồi thường cho ông Lê Đình C. và bà L. số tiền 1.200.000.000 đồng.