TAND Tối cao trả lời nhiều vướng mắc liên quan đến kiện Văn phòng Đăng ký đất đai
Nhiều tòa án gặp vướng mắc khi xác định đối tượng khởi kiện là Văn phòng Đăng ký đất đai hay chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất đai hay UBND…
Mới đây, TAND Tối cao đã ban hành Công văn 207/TANDTC-PC về việc thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc trong công tác xét xử vụ án hành chính.
Trong đó, TAND Tối cao trả lời nhiều vướng mắc liên quan đến đối tượng khởi kiện.
Vướng mắc về đối tượng khởi kiện
Cụ thể, có tòa án gặp vướng mắc về trường hợp: ông A nộp hồ sơ tại nơi tiếp nhận và trả kết quả (bộ phận một cửa) của UBND huyện B đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu. Hồ sơ đã được tiếp nhận và hẹn ngày trả kết quả.
Trong quá trình kiểm tra, xác minh đối với yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì kết quả là chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai (VPĐKĐĐ) huyện B ra thông báo hồ sơ của ông A không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận, đồng thời chuyển hồ sơ sang bộ phận một cửa của UBND huyện B. Bộ phận một cửa gọi ông A lên và trả lại toàn bộ hồ sơ cho ông A (kèm theo văn bản của chi nhánh VPĐKĐĐ huyện B). Xác định người bị kiện trong trường hợp này như thế nào?
Trả lời, TAND Tối cao cho rằng theo khoản 2 Điều 105 Luật Đất đai năm 2013 thì UBND cấp huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
Như vậy, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là UBND cấp huyện. Việc chi nhánh VPĐKĐĐ ra thông báo hồ sơ của ông A không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận và chuyển hồ sơ sang bộ phận một cửa của UBND huyện B là hành vi hành chính mang tính nội bộ của UBND huyện B.
Trường hợp ông A không đồng ý với việc trả hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận thì ông A có quyền khởi kiện hành vi hành chính không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND huyện B. Do đó, người bị kiện trong trường hợp này là UBND huyện B là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho ông A.
Một tòa khác gặp vướng mắc khi chi nhánh VPĐKĐĐ ban hành văn bản gửi UBND xã có nội dung: Trả lại hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người có đơn yêu cầu. Trong phần nơi nhận có tên người yêu cầu và đã gửi văn bản này cho người yêu cầu. Người yêu cầu khởi kiện vụ án hành chính đối với văn bản trả lại hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp này xác định đối tượng khởi kiện như thế nào?
Theo TAND Tối cao, khoản 5 Điều 1 Nghị định số 10/2023/NĐ-CP; Điều 1, Điều 3 Thông tư liên tịch số 15/2015/TTLT-BTNMT-BNV-BTC ngày 4-4-2015 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của VPĐKĐĐ trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường.
Theo Điều 84, khoản 2 Điều 567 BLDS thì VPĐKĐĐ chịu trách nhiệm trước việc thực hiện nhiệm vụ được giao của chi nhánh VPĐKĐĐ trong phạm vi được ủy quyền.
Trường hợp này, chi nhánh VPĐKĐĐ có thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ đăng ký đất đai nhưng không tiếp nhận. Vì vậy, đối tượng khởi kiện là hành vi hành chính của VPĐKĐĐ.
Kiện Văn phòng đăng ký đất đai hay chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai?
Cũng liên quan đến đối tượng khởi kiện, có tòa án vướng mắc là khi giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xác nhận thay đổi vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sỡ hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam của Chi nhánh VPĐKĐĐ thì xác định người bị kiện là chi nhánh VPĐKĐĐ hay VPĐKĐĐ tỉnh và tòa án nào có thẩm quyền giải quyết?
TAND Tối cao cho rằng khoản 5 Điều 1 Nghị định số 10/2023/NĐ-CP thì chi nhánh VPĐKĐĐ được thực hiện cấp giấy chứng nhận, xác nhận thay đổi vào vào giấy chứng nhận đã cấp đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
Theo Điều 1, 3 Thông tư liên tịch số 15/2015/TTLT-BTNMT-BNV-BTC; Điều 84, 567 BLDS năm 2015 thì chi nhánh VPĐKĐĐ là đơn vị phụ thuộc VPĐKĐĐ, thực hiện một phần chức năng của VPĐKĐĐ trong phạm vi được ủy quyền. VPĐKĐĐ chịu trách nhiệm trước việc thực hiện nhiệm vụ được giao của chi nhánh VPĐKĐĐ trong phạm vi được ủy quyền. Do đó, cần phải xác định người bị kiện là VPĐKĐĐ tỉnh và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh.
Cạnh đó, theo khoản 9 Điều 3 Luật TTHC thì người bị kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện. Vì vậy, nếu đương sự khởi kiện chi nhánh VPĐKĐĐ thì tòa án phải hướng dẫn đương sự sửa đổi đơn khởi kiện theo Điều 122 Luật TTHC để khởi kiện VPĐKĐĐ.
Kiện ai khi xã không cử người dẫn đạc?
Có tòa án đặt câu hỏi là: Hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất yêu cầu phải có người dẫn đạc ký tên trong hồ sơ địa chính do chi nhánh VPĐKĐĐ đo vẽ. Người dẫn đạc là cán bộ, công chức địa chính cấp xã nhưng UBND xã không cử và cũng không đồng ý cho người dẫn đạc ký tên nên không đo vẽ được bản đồ địa chính. Vậy người yêu cầu có quyền khởi kiện vụ án hành chính không, ai là người bị kiện?
TAND Tối cao trả lời như sau: theo Điều 5 và khoản 2 Điều 75 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP (quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai) thì VPĐKĐĐ, chi nhánh VPĐKĐĐ có thẩm quyền lập hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất.
Khi lập Hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất yêu cầu phải đo vẽ bản đồ địa chính. Chi nhánh VPĐKĐĐ không lập hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất do không có người dẫn đạc ký tên trong hồ sơ địa chính do chi nhánh VPĐKĐĐ đo vẽ thì người yêu cầu có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với hành vi hành chính không lập hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất của VPĐKĐĐ.
Việc UBND cấp xã không cử cũng không đồng ý cho người dẫn đạc ký tên nên không đo vẽ được bản đồ địa chính là hành vi không thực hiện nhiệm vụ công vụ, mang tính chất nội bộ, không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.