Lời hẹn 60 năm
Nhà ông Hà chuẩn bị có khách ở xa đến cùng đón Tết Độc lập lần thứ 80. Ngay từ giữa tháng Tám, ông Hà đã giục vợ sắm sanh, chuẩn bị. Con cái trưởng thành, ở riêng cả. Dù có điều kiện, ông bà Hà vẫn áp dụng nguyên tắc con cái chỉ ở gần, không ở chung. Căn phòng dành cho khách trong căn hộ gần trăm mét vuông của hai vợ chồng đã tươm tất. Bà Liên bảo: Tha hồ cho hai ông tâm sự…

Minh họa: AI.
Tính ra, ông Hà với ông Văn biết nhau tới nay đã 60 năm. Ngày 5/8/1964, Mỹ dùng không quân đánh phá vào Vinh, Lạch Trường, Hồng Gai, Cảng Gianh… Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ chính thức bắt đầu. Khả năng không quân Mỹ đánh Hà Nội là không còn nghi ngờ gì nữa. Người dân Hà Nội được lệnh đi sơ tán. Mùa hè năm 1965, ông Hà, lúc ấy là cậu bé hơn 10 tuổi, theo Hợp tác xã may xuất khẩu của mẹ về một làng quê thuộc huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc sơ tán tránh bom Mỹ. Với nhiều đứa trẻ khác, đi sơ tán là phải xa bố mẹ, gia đình, khép mình vào kỷ luật của những trại trẻ sơ tán mà các cơ quan tổ chức. Còn với cu Hà, sự thay đổi lớn nhất là chuyển chỗ học, và không có điện. Đi sơ tán, Hà vẫn sống cùng mẹ, không bao giờ bị đói, thậm chí ăn uống còn đầy đủ hơn vì vùng quê sẵn rau cỏ, tôm, cá. Dạo ấy, mỗi khi đi học về, cậu học sinh lớp 5 có thể đánh bay 4-5 bát cơm, thức ăn chỉ có canh dưa nấu với cá tép và rau diếp thái nhỏ!
Mẹ con Hà được phân ở nhờ gia đình bác Dự. Thật ra Dự là tên người con trai cả, ở vùng ấy có lệ lấy tên con cả để gọi bố mẹ một cách kính trọng. Ông chồng bác chủ nhà đã mất, nhà có 4 người con trai. Anh Dự là cả đã có vợ, đến các anh Khuyến, Khanh và cu Văn, bằng tuổi và học cùng lớp với Hà. Phải nói là những người dân ở nơi sơ tán cũng như gia đình bác Dự rất tốt. Họ không chỉ nhường nhà, mà còn coi bà con sơ tán từ Hà Nội về như những người thân, sẻ chia từ củ khoai, quả cà… mặc dù đời sống của họ cũng không dư dả gì!
Đến nay, sau hơn 60 năm, ông Hà vẫn nhớ niềm vui của cả thôn khi hợp tác xã nông nghiệp mổ trâu, mổ lợn nhân ngày 2/9, hay Tết Nguyên đán. Mỗi gia đình sơ tán cũng được chia phần như bà con xã viên người địa phương. Khắp các xóm, ngõ rộn tiếng băm chặt, thơm nức mùi xào nấu, điều mà mỗi năm chỉ có vài lần. Tụi trẻ thường được hưởng đầu tiên, những miếng gan luộc bé tí xíu sao mà bùi, ngon đến thế!
Trong cái không may có cái may. Mấy năm đi sơ tán đã làm cho cu Hà, một thằng bé thành phố cớm nắng, rắn rỏi hơn nhiều và đặc biệt là có cơ hội tiếp xúc với thiên nhiên. Hà thích nhất là những chiều hè được cùng cu Văn theo anh Khanh, anh Khuyến đi mò cá trên dòng mương thủy lợi. Mấy anh em dàn hàng ngang, đầm mình trong làn phù sa hồng mịn, mát rượi, ngược dòng nước chảy. Phía trước là chiếc nồi đồng thả nổi để đựng cá. Thỉnh thoảng, một người reo lên "Cho cu Hà con diếc này" và giơ cao con cá còn tươi rói, lấp lóa nắng chiều trước khi thả vào nồi.
Cùng tuổi, học cùng lớp lại ở cùng nhà nên Hà cùng Văn mau chóng thân nhau. Hà có cả một kho chuyện về thành phố, từ tàu điện leng keng, rạp chiếu phim Kim Đồng chuyên phục vụ thiếu nhi, đến que kem, đĩa thịt bò khô… trên Bờ Hồ. Còn Văn, nó hấp dẫn Hà bởi sự tháo vát những lúc hai đứa cùng đi bắt cua, cuốc chạch, tát vét. Văn còn là thầy dạy bơi cho Hà. Gặp nhau hôm trước, ngay hôm sau nó ra vườn, chặt khúc thân chuối to, thả xuống ao để Hà bám vào mà tập bơi. Vậy mà chỉ sau hơn tuần, cậu trai đường phố đã biết bơi, dù chỉ theo kiểu bơi chó. Để bù lại, Hà vốn học khá hơn, sẵn sàng giảng cho Văn cách làm bài toán đố, cách học thuộc lòng sao cho mau thuộc.
Tình bạn giữa hai đứa rất khăng khít, có cái gì cũng dành phần nhau. Hà thì hay thủ cái kẹo, tấm bánh bố mang về từ Hà Nội, Văn thường bỏ túi nắm ngô rang, mấy mấy củ lạc luộc. Cũng nhờ Văn mà Hà biết vị thịt chuột đồng. Lần ấy, chị Dự, chị dâu của Văn đi gặt bắt được chú chuột đồng. Chuột đồng mùa gặt béo mũm, chị làm sạch, luộc lên rồi ép lá chanh. Văn thủ một miếng rủ Hà ra sau đống rơm chia nhau nhấm nháp. Ngon không kém thịt gà.
Thân nhau, nhưng giữa hai đứa không phải không có sự cãi vã, giận dỗi. Chuyện nghiêm trọng nhất là trên đầu Văn có cái sẹo rất to, đâu như dấu vết của một cái nhọt bọc. Không biết nghe ai mách, mỗi khi ăn bưởi, Văn hay nhờ Hà bóp tinh dầu vỏ bưởi vào đấy mong tóc mọc lại. Lần ấy, Văn nhờ đúng lúc Hà đang mải đọc nốt cuốn "Không gia đình" tập 4 để chiều còn kịp trả, mượn tiếp tập 5. Không những không giúp, Hà còn nói: Cái “sân bay” trên đầu cậu thì ăn cả cây bưởi cũng chẳng có cọng tóc nào mọc lên đâu.
Lần ấy Văn giận Hà cả tuần, mãi đến hôm bố Hà về thăm, nó dành cho Văn hẳn 5 viên kẹo trứng chim, “hòa bình” mới được lập lại giữa hai thằng.
Vui nhất vẫn là những đêm sáng trăng. Ở Hà Nội, chưa bao giờ Hà thấy trăng sáng như thế. Ánh trăng vằng vặc, tưởng như soi rõ cả những ngọn cỏ ven bờ ao làng. Gió thì cứ mát rười rượi. Những đêm như thế, bọn trẻ con, cả sơ tán lẫn địa phương chỉ mau mau chóng chóng làm xong mọi việc, học bài quấy quá để được phép chạy ra sân kho hợp tác chỗ đầu làng. Thôi thì đủ trò, vui nhất với bọn con trai vẫn là chơi đánh trận giả. Chia làm hai phe, rình mò, lừa miếng, hạ nhau bằng súng miệng kiểu “Pằng Hà!”. Lạ là chỉ bắn miệng nhưng kẻ bị bắn hạ đa phần tâm phục, khẩu phục, chấp nhận “chết”, đứng ra ngoài cuộc chơi cho đến khi một bên hết quân, bên còn lại chiến thắng. Chơi chán, cả bọn lại nằm lăn ra bãi cỏ rời rợi ánh trăng sát bờ ao làng mà tán chuyện. Những đứa trẻ Hà Nội thì mơ hết ném bom để về thành phố đi học tiếp. Đám con trai mê đánh trận giả, trong đó có Hà và Văn đều không ngờ rằng chúng sẽ phải đánh trận thật, và nhiều đứa chết thật nơi chiến trường!
Trong những lần tán gẫu dưới trăng như thế, cu Hà hay kể cho bọn trẻ ở làng những câu chuyện về ngày Tết Độc lập, đón mừng Quốc khánh 2/9 ở Hà Nội. Một trong những ngày Tết Độc lập mà nó nhớ nhất là dịp kỷ niệm trọng thể Quốc khánh 2/9/1960. Đó là năm kỷ niệm 15 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Có rất nhiều hoạt động đón ngày Tết Độc lập năm ấy, nhưng với bọn trẻ, và cả người lớn hấp dẫn nhất vẫn là Lễ duyệt binh vào sáng 2/9 và màn bắn pháo hoa vào buổi tối. Ngoài ra còn có biểu diễn ca nhạc ngoài trời mà địa điểm xôm tụ nhất là trên Quảng trường trước cửa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gần vườn hoa Chí Linh, nay là vườn hoa Lý Thái Tổ, với sự góp mặt của các danh ca như Quốc Hương, Trần Khánh, Quang Hưng, Mai Khanh, Thương Huyền…
Những năm ấy còn chưa có truyền hình, càng chưa có truyền hình trực tiếp như bây giờ. Radio thì không phải nhà ai cũng có để có thể nghe tường thuật trực tiếp các hoạt động qua làn sóng Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam nên cái sự háo hức có được một vị trí thuận lợi để xem diễu binh, bắn pháo hoa hay ca nhạc càng lớn. Ai cũng cố gắng đi sớm để được tận mắt ngắm nhìn đoàn quân đi đều tăm tắp qua những con phố chính của Hà Nội trong tiếng nhạc hùng tráng mà bay bổng của các hành khúc "Vì nhân dân quên mình", "Tiến bước dưới quân kỳ"…
Dạo ấy, Quốc khánh 2/9 còn được gọi là Tết Độc lập. Đã là Tết thì phải có ăn tươi. Thường thì bữa ăn chính của dịp này được tổ chức vào trưa ngày Quốc khánh 2/9, sau khi mọi người đi xem duyệt binh về. Các gia đình hay chọn nhất là món bún chả, món đặc trưng của Hà Nội, cũng là món ăn luôn hấp dẫn khách nơi khác về. Để có bữa bún chả tương đối đủ đầy cho hơn chục người cả chủ lẫn khách, các bà nội trợ cũng phải chuẩn bị dành tem phiếu từ trước. Sáng 2/9, nhiều người, nhất là các chị em gái trong nhà phải hy sinh việc xem duyệt binh để lo cho bữa bún chả. Vất vả nhất là khâu xếp hàng mua thịt, và gay nhất là khâu đổi bún. Còn nhớ lũ trẻ như Hà dù mới sáu, bảy tuổi cũng được huy động dậy sớm để đi xếp hàng, gần đến lượt thì có chị mang gạo ra đổi bún. Thường thì một cân gạo mậu dịch kèm thêm hai, ba hào tiền công gì đó, đổi được hai cân rưỡi bún. Đó là đổi ở cửa hàng của hợp tác xã. Nói gay nhất là bởi nhiều khi xếp hàng từ sáng sớm, gần đến lượt thì hết bún. Giải pháp lúc ấy là đổi bún ngoài, hao hơn nhưng thường ngon hơn bún mậu dịch. Có nhà bí quá chọn giải pháp luộc mì sợi ăn kèm với chả, rau sống, nước chấm thay bún…
Dù sao thì đó cũng vẫn là bữa “cỗ Tết” rất vui, nhất là các chị khi được khen ướp chả khéo, quạt chả chín đều, chẻ rau muống nhỏ và đặc biệt là pha nước chấm khéo, vừa khẩu vị…
Chuyện ăn Tết Độc lập Hà kể đi, kể lại, như một nỗi nhớ khiến Văn đâm mê. Nó bắt Hà hứa khi có dịp phải đưa nó về Hà Nội, cùng đón Tết Độc lập.
***
Vậy mà lời hứa ấy, phải đến 60 năm sau mới sắp được thực hiện. Những năm chiến tranh phá hoại, do điều kiện thời chiến, những ngày Quốc khánh tổ chức đơn giản, không có diễu binh, cũng chẳng có bắn pháo hoa. Và chỉ vài năm sau, khi chưa tròn 18, lứa thanh niên mới lớn như Văn, như Hà lần lượt lên đường nhập ngũ. Sau năm 1975, từ chiến trường ra, Hà cũng có lần tìm về nơi sơ tán, mong thăm lại người cũ cảnh xưa. Chuyến thăm ấy, anh được biết Văn cũng may mắn ra khỏi cuộc chiến, đã ở lại Tây Nguyên sinh sống, lấy vợ. Thời hậu chiến vất vả, tuy vẫn nghĩ tới nhau, nhưng mỗi người có một cuộc sống riêng nên khó qua lại.
Mãi gần đây, ông Hà mới biết tin ông Văn đã trao lại cơ nghiệp hơn chục hecta cà phê, hồ tiêu cho con trai, về quê trông nom ngôi nhà từ đường hương hỏa, sau khi vợ mất. Ông Hà cũng đã nghỉ hưu. Họ cũng có đôi lần hàn huyên trong ngôi nhà đầy ắp kỷ niệm xưa.
Những ngày Tháng Tám này, Hà Nội đang rộn ràng chuẩn bị cho Đại lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9. Phố phường nhộn nhịp cờ hoa. Đây là dịp may để ông Hà thực hiện lời hứa 60 năm trước với người bạn thuở ấu thơ. Họ sẽ cùng nhau đi xem lễ duyệt binh, thưởng thức màn pháo hoa vào tối 2/9 và tất nhiên, không thể thiếu món bún chả đặc trưng Hà Nội do chính tay bà Liên sửa soạn kèm vại bia hơi sủi bọt thơm mát…
Nguồn Bắc Ninh: https://baobacninhtv.vn/loi-hen-60-nam-postid425384.bbg