'Lời thề quyết tử' - phim tài liệu khơi dậy sức mạnh của lời thề dân tộc
Phim tài liệu 'Lời thề quyết tử' do Điện ảnh Quân đội nhân dân sản xuất đưa người xem trở lại bối cảnh đặc biệt của lịch sử Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi nền độc lập vừa giành được chưa kịp củng cố đã phải đối mặt với cuộc xâm lược trở lại của thực dân Pháp.

Hình ảnh trong quá trình ghi hình bộ phim tài liệu "Lời thề quyết tử".
Trong dòng chảy ký ức về những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, "Lời thề quyết tử" gợi lại một thời khắc sinh tử của dân tộc, mở ra không gian suy tưởng sâu sắc về sức mạnh tinh thần, về mặt trận văn hóa - nơi lời thề giữ nước được hun đúc bằng trí tuệ, bản lĩnh và lý tưởng của con người Việt Nam.
Trong bối cảnh lịch sử sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hà Nội (Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) trở thành tâm điểm của cuộc đối đầu mang tính sống còn. Trong phim, khán giả có thể thấy rõ những ngày đêm khói lửa của Hà Nội mùa đông năm 1946, một tình thế lịch sử đặc biệt: khi vận mệnh dân tộc vào thế "ngàn cân treo sợi tóc", mỗi quyết định, mỗi hành động đều mang ý nghĩa định đoạt tương lai đất nước.
Ngay sau khi đất nước độc lập, Chính phủ lâm thời phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thách thức: hậu quả tàn khốc của chế độ thực dân, ngày 3/9/1945, Chính phủ lâm thời khẩn trương đặt ra ba nhiệm vụ trọng tâm và cấp thiết: diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.

Hình ảnh tư liệu trong phim.
Sự linh hoạt, mềm dẻo của ta được thể hiện qua chính sách ngoại giao "tạm hòa hoãn với Pháp, rồi lại tạm hòa hoãn với Pháp để kéo dài thời gian chuẩn bị kháng chiến" nhằm giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc. Tận cùng sự nhân nhượng là Lời kêu gọi Toàn quốc Kháng chiến, viết tại căn nhà cụ Nguyễn Văn Dương (làng Vạn Phúc - thành phố Hà Nội).
Lời thề quyết tử của dân tộc vang lên hào sảng, trực tiếp đáp lại nhiệm vụ diệt giặc ngoại xâm: "Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ... hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc". Chính trong bối cảnh ấy, lời thề "Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh" trở thành lời cam kết thiêng liêng của toàn dân.

Bộ phim được ghi hình ở nhiều địa điểm.
Để giữ vững nền độc lập non trẻ, cùng với nhiệm vụ vũ trang chống giặc ngoại xâm, việc củng cố sức mạnh nội tại qua Mặt trận Văn hóa trở nên vô cùng cần thiết và sống còn.
Bộ phim dành không gian cho khán giả thấy công cuộc đấu tranh chống "giặc" thầm lặng song song với nhiệm vụ quân sự, đó là giặc đói và giặc dốt. Việc diệt giặc dốt chính là một phần của mặt trận văn hóa, vì "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu".
Đó là hình ảnh phong trào "hũ gạo cứu đói" và phong trào "Bình dân học vụ", khi người dân phải tìm cách học chữ trong mọi điều kiện khó khăn, không có giấy thì viết trên cát, không có bút thì dùng lô tre.
Sự đồng lòng, quyết tâm giải quyết các vấn đề nội bộ này đã tạo nên nền tảng tinh thần vững chắc nhất cho cuộc kháng chiến. Do đó, một trong những điểm nhấn quan trọng nhất của phim tài liệu "Lời thề quyết tử" là việc đặt mặt trận văn hóa song hành với tiến trình lịch sử của cuộc kháng chiến.
Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thanh Hiệp - tác giả kịch bản phim chia sẻ: "Đây là cách tiếp cận nhằm làm rõ một sự thật lịch sử: trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, văn hóa và nghệ thuật không đứng ngoài cuộc, mà là một bộ phận hữu cơ của sự nghiệp kháng chiến.
Bộ phim nằm trong tổng đề tài chung của Bộ phim dài tập về mặt trận văn hóa, những đóng góp của các nghệ sĩ-chiến sĩ trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đây là một đề tài có ý nghĩa khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều cơ hội và thách thức".

Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thanh Hiệp - tác giả kịch bản phim tài liệu "Lời thề quyết tử".
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đông đảo văn nghệ sĩ - trí thức đã tự nguyện dấn thân vào chiến trường bằng chính năng lực sáng tạo của mình. Họ sáng tác trong điều kiện vô cùng gian khó, giữa bom đạn, thiếu thốn, hiểm nguy, nhưng vẫn kiên định với lý tưởng phụng sự Tổ quốc.
Những tác phẩm nghệ thuật ra đời trong giai đoạn ấy vừa góp phần phản ánh hiện thực chiến tranh, đồng thời bồi đắp niềm tin, củng cố ý chí, nuôi dưỡng khát vọng độc lập cho cả dân tộc. Phim khắc họa rõ nét hình ảnh người nghệ sĩ-chiến sĩ, những con người đã coi sáng tạo nghệ thuật là một hình thức chiến đấu.
Các văn nghệ sĩ như: Nam Cao, Kim Lân, Quang Dũng... đã rời mái ấm gia đình, dấn thân vào mặt trận. Nếu Nam Cao đưa ra quan điểm "sống đã rồi hãy viết" thì Nguyễn Đình Thi khẳng định: "Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới".

Lời thề thiêng liêng, xúc động một thời.
Bộ phim làm xúc động người xem với câu chuyện về sự ra đời của Điện ảnh Cách mạng tại chiến khu Đồng Tháp Mười, nơi "in tráng phim được thực hiện thủ công trên một chiếc thuyền có mui lưu động" để tránh sự càn quét của địch. Phim tài liệu đầu tiên "Trận Mộc Hóa" với cảnh chiến đấu chân thực, đã mang lại nhiều cảm xúc cho người xem và đi vào lịch sử điện ảnh dân tộc.
Trong điều kiện thông tin bị chia cắt, chính văn hóa-nghệ thuật đã trở thành cầu nối tinh thần giữa hậu phương và tiền tuyến, giữa Hà Nội, chiến khu Việt Bắc và Nam Bộ kháng chiến, góp phần tạo nên một mặt trận tinh thần thống nhất trên phạm vi cả nước.
Đặc biệt, trong khi các mặt trận chiến đấu đang ác liệt, nhà nước đã tổ chức một đoàn chiếu bóng dùng một toa xe lửa đi từ Bắc vào Nam để chiếu phim tuyên truyền cổ động. Đồng bào đã đi vài chục cây số, đợi vài ngày chỉ để được xem phim có cảnh Bác Hồ trên đất Pháp, cảnh cờ đỏ sao vàng tung bay. Điều đó chứng tỏ sức mạnh tuyên truyền và lòng dân đối với cách mạng.
Ở góc độ đạo diễn, Thượng tá Phạm Thanh Hùng lựa chọn tinh thần làm phim nghiêm cẩn và nhất quán. Trước sự hạn chế về tư liệu hình ảnh của giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, đoàn làm phim khai thác tối đa những tranh vẽ, ảnh tư liệu còn lại, kết hợp với lời bình và âm nhạc để tạo nên mạch cảm xúc xuyên suốt cho bộ phim.
Quan điểm không đặt giả định "nếu như" trở thành một nguyên tắc sáng tạo xuyên suốt bộ phim. Chính sự tôn trọng lịch sử ấy giúp "Lời thề quyết tử" giữ được độ tin cậy của một tác phẩm tài liệu, đồng thời tạo không gian cho người xem tự suy ngẫm, tự đối thoại với quá khứ.

Thượng tá Phạm Thanh Hùng - đạo diễn phim.
"Âm nhạc trong phim cũng được sử dụng như một lớp ký ức lịch sử. Những ca khúc ra đời trong giai đoạn 1945-1948 như: Nam Bộ kháng chiến; Hà Nội vùng đứng lên... đã tái hiện không khí thời đại, khơi gợi cảm xúc tập thể, giúp người xem cảm nhận được tinh thần bắc-trung-nam, một lời thề chung, đúng như tinh thần mà phim đã nhấn mạnh, Thượng tá Phạm Thanh Hùng chia sẻ.
"Lời thề quyết tử" dẫn dắt bằng câu hỏi: Điều gì đã khiến cả một dân tộc sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập vừa giành được? Câu trả lời nằm trong chính mạch lời bình, khuôn hình, hình ảnh của con người Việt Nam với đầy đủ trí tuệ, lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm.
Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thanh Hiệp bày tỏ kỳ vọng: “Đất nước ta đang bước vào chặng đường phát triển mới với thời cơ và thách thức đan xen, đặt ra những yêu cầu ngày càng cao. Trong bối cảnh ấy, độc lập dân tộc và bản sắc văn hóa vẫn là những giá trị cốt lõi, có ý nghĩa sống còn. Hơn bao giờ hết, đội ngũ văn nghệ sĩ ở mọi loại hình nghệ thuật cần tiếp tục khẳng định vai trò của mình - những chiến sĩ kiên cường trên mặt trận văn hóa của thời đại hôm nay".
Giữ trọn lời thề quyết tử là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, đồng thời cũng là giữ gìn bản sắc văn hóa, bảo vệ nền tảng tinh thần của xã hội, chống lại sự xói mòn các giá trị cốt lõi. Nếu trong chiến tranh, văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, thì trong thời bình, họ vẫn mang trên mình trách nhiệm sáng tạo, trách nhiệm xã hội và trách nhiệm trước lịch sử. Phim tài liệu "Lời thề quyết tử" gửi tới khán giả thông điệp sâu sắc: mỗi thế hệ người Việt Nam đều có một lời thề của riêng mình trước Tổ quốc, hiện thực hóa bằng hành động, bằng trách nhiệm và bằng sự dấn thân trong chính thời đại của mình.











