Lúa gạo Việt Nam – từ quân lương kháng chiến đến hành trình xanh và thịnh vượng

Việt Nam là một trong những cái nôi của nền văn minh lúa nước châu Á. Từ ngàn đời nay, cây lúa và hạt gạo không chỉ đơn thuần là nguồn lương thực nuôi sống con người mà còn thấm sâu vào tâm hồn, văn hóa, phong tục, trở thành một phần di sản quý báu của dân tộc.

Từ lời ru “Bao giờ cho đến tháng Năm, thổi nồi cơm nếp vừa nằm vừa ăn…”, cho tới những câu ca dao, tục ngữ về hạt gạo, bóng dáng của lúa gạo luôn hiện hữu, gắn liền với tình đất, tình người. Trong mỗi bữa cơm gia đình, trong nghi lễ tín ngưỡng, trong ngày hội mùa hay phiên chợ quê, lúa gạo đã trở thành biểu tượng của sự no đủ, đoàn kết và sức sống bền bỉ của dân tộc Việt.

Niềm vui trên những cánh đồng lúa vàng bội thu. Ảnh: Hiền Thanh/Báo QĐND

Niềm vui trên những cánh đồng lúa vàng bội thu. Ảnh: Hiền Thanh/Báo QĐND

Trong suốt những năm tháng trường kỳ kháng chiến chống thực dân và đế quốc, hạt gạo Việt Nam đã mang trên mình một sứ mệnh đặc biệt: trở thành quân lương của cách mạng. Khi đất nước bước vào cuộc chiến sống còn, từ những hầm bí mật nơi hậu phương cho đến kho quân lương tiền tuyến, từ những gùi thóc vượt Trường Sơn cho đến những bữa cơm sẻ chia trong lán trại, hạt gạo đã đồng hành cùng bộ đội, dân công hỏa tuyến và cả người dân. Mỗi hạt cơm nuôi quân sĩ, nuôi dân công, nuôi hậu phương chính là một hạt vàng kết tinh ý chí quyết thắng. Không ít gia đình đã “thắt lưng buộc bụng”, chắt chiu từng bát gạo gửi ra mặt trận. Để có hạt gạo tiếp sức cho tiền tuyến, người dân quê phải vượt qua bom đạn, đối mặt với những trận càn quét ác liệt. Chính trong bối cảnh ấy, lúa gạo không chỉ là lương thực mà còn là niềm tin, là hy vọng, là nguồn sức mạnh tinh thần góp phần làm nên thắng lợi của dân tộc.

Bước qua thời chiến, di sản văn minh lúa nước không chỉ lưu giữ ở những giống lúa cổ truyền quý hiếm mà còn hiện diện sinh động trong đời sống hôm nay. Những cánh đồng bậc thang uốn lượn vùng Tây Bắc đã trở thành điểm đến thu hút du khách trong và ngoài nước. Vùng lúa mùa nổi Đồng Tháp Mười, những cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay ở khắp đồng bằng sông Cửu Long hay những làng nghề lâu đời làm cốm, bánh chưng, bún gạo, phở khô… đều là tài sản văn hóa – kinh tế vô giá, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam trên bản đồ du lịch thế giới. Hạt gạo đã vượt khỏi giá trị dinh dưỡng để trở thành sản phẩm văn hóa, du lịch, sản phẩm kinh tế có tính lan tỏa mạnh mẽ.

Đằng sau hạt gạo là công sức, mồ hôi và trí tuệ của biết bao thế hệ nông dân. Người nông dân Việt Nam đã đi qua muôn vàn khó nhọc: những vụ mùa sâu bệnh, những năm đói kém, những mùa lũ chồng lũ, hạn hán kéo dài. Nhưng họ vẫn kiên cường bám ruộng đồng, gắn bó với cây lúa như một phần máu thịt. Cùng với đó, các nhà khoa học, doanh nghiệp và tổ chức đã đồng hành để tạo nên những bước đột phá về năng suất và chất lượng. Những giống lúa mới chịu hạn, chịu mặn, thơm ngon và giàu dinh dưỡng được lai tạo, nhân rộng, giúp Việt Nam không chỉ tự tin đảm bảo an ninh lương thực mà còn vươn lên trở thành cường quốc xuất khẩu gạo. Từ những hợp tác xã ngày đầu đổi mới cho đến những cánh đồng lớn áp dụng công nghệ cao, sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại đã và đang nâng tầm giá trị hạt gạo Việt.

Ngày nay, Việt Nam liên tục nằm trong nhóm những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, với sản lượng hàng triệu tấn mỗi năm, góp mặt tại hơn 150 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thương hiệu gạo Việt ngày càng được khẳng định, không chỉ bởi số lượng mà còn bởi chất lượng, với những giải thưởng quốc tế danh giá dành cho gạo thơm, gạo hữu cơ, gạo đặc sản. Điều này vừa khẳng định vị thế kinh tế, vừa nâng cao uy tín quốc gia, đồng thời mang lại thu nhập ổn định cho hàng triệu hộ nông dân.

Tuy nhiên, hành trình của lúa gạo Việt không dừng lại ở những con số xuất khẩu. Trong bối cảnh toàn cầu đang đối diện với thách thức của biến đổi khí hậu, an ninh lương thực và phát triển bền vững, ngành lúa gạo Việt Nam đã và đang chuyển mình mạnh mẽ theo hướng xanh, sạch, có trách nhiệm với môi trường. Những mô hình canh tác thông minh thích ứng biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính, tiết kiệm nước, áp dụng công nghệ số trong quản lý sản xuất, truy xuất nguồn gốc… đang được nhân rộng. Lúa gạo không chỉ đem lại giá trị kinh tế mà còn góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ hành tinh, đảm bảo sức khỏe cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Có thể nói, từ quân lương nuôi dưỡng kháng chiến đến sản phẩm xuất khẩu mang thương hiệu quốc gia, lúa gạo Việt Nam đã đi qua một hành trình dài đầy tự hào. Đó là hành trình của sự hy sinh, của trí tuệ và khát vọng, là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt. Hạt gạo hôm nay không chỉ là kết quả của một nền văn minh nông nghiệp lâu đời, mà còn là biểu tượng của niềm tin, niềm tự hào, và là cam kết của Việt Nam đối với một tương lai xanh, thịnh vượng và nhân văn.

Trà Bình

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/lua-gao-viet-nam-tu-quan-luong-khang-chien-den-hanh-trinh-xanh-va-thinh-vuong-a30154.html