Lý do giải ngân chi cho khoa học công nghệ chưa đến 1%

Các chuyên gia cho rằng cần thiết lập cơ chế phân quyền, ủy quyền rõ ràng đi kèm quy định bảo đảm an toàn pháp lý cho cán bộ quản lý, giúp họ mạnh dạn, linh hoạt trong thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Ngày 28-11, Trường Đại học Kinh tế - Luật TP.HCM tổ chức tọa đàm “Các mô hình và giải pháp đột phá để triển khai Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia tại vùng Đông Nam Bộ và vùng ĐBSCL”.

 Tọa đàm diễn ra sáng 28-11 theo hình thức trực tiếp và trực tuyến. Ảnh: THANH TUYỀN

Tọa đàm diễn ra sáng 28-11 theo hình thức trực tiếp và trực tuyến. Ảnh: THANH TUYỀN

Cơ chế chưa thực sự giải tỏa rủi ro pháp lý và áp lực cho đội ngũ

Phát biểu khai mạc, PGS.TS Lê Vũ Nam - Phó Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế- Luật TP.HCM, chia sẻ Nghị quyết 57 là văn kiện có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện tầm nhìn thời đại của Đảng về con đường phát triển đất nước dựa trên tri thức, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nghị quyết khẳng định quyết tâm chính trị rất lớn trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Việc triển khai Nghị quyết đòi hỏi toàn hệ thống chính trị phải kết hợp hài hòa giữa bản lĩnh, trí tuệ và hành động quyết liệt. Đồng thời, cần phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của Nhà nước, doanh nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu và toàn xã hội, biến tri thức khoa học thành nguồn lực nội sinh mạnh mẽ cho phát triển.

Theo PGS.TS Lê Vũ Nam, vùng Đông Nam Bộ và vùng ĐBSCL là hai động lực quan trọng của quốc gia, giữ vai trò then chốt trong cấu trúc phát triển vùng, đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội và bảo đảm an ninh lương thực, an ninh năng lượng. Tuy nhiên, để hai vùng thực sự bứt phá, trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo tầm quốc gia, cần có cơ chế, chính sách đủ mạnh và mô hình phát triển kiến tạo. Từ đó, thúc đẩy liên kết vùng, huy động nguồn lực xã hội và lan tỏa tri thức khoa học theo tinh thần “đi trước đón đầu”.

“Chỉ khi đó, khoa học, công nghệ và chuyển đổi số mới có thể trở thành trụ cột nâng cao năng suất, tăng hàm lượng công nghệ trong các ngành kinh tế và tạo lực đẩy cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” - PGS.TS Lê Vũ Nam nhấn mạnh.

Đại diện cho nhóm nghiên cứu đến từ Viện Phát triển chính sách ĐHQG-HCM và Trường ĐH Kinh tế- Luật, TS Nguyễn Văn Nên cho biết qua khảo sát tại một số địa phương, cho thấy quá trình triển khai Nghị quyết 57 vẫn còn bộc lộ nhiều khó khăn, vướng mắc.

Do chưa có sự phân vai rõ ràng cho các địa phương dẫn đến sự lúng túng trong xác lập các chỉ tiêu phát triển. Cạnh đó, đang có sự chạy đua thành tích giữa các địa phương trong thực hiện Nghị quyết. Điển hình, có thể kể đến yêu cầu bố trí tối thiểu 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; kinh phí nghiên cứu và phát triển đạt 2% GRDP, trong đó nguồn lực xã hội chiếm trên 60%.

 TS Nguyễn Văn Nên cho biết qua khảo sát tại một số địa phương cho thấy quá trình triển khai Nghị quyết 57 vẫn còn bộc lộ nhiều khó khăn. Ảnh: THANH TUYỀN

TS Nguyễn Văn Nên cho biết qua khảo sát tại một số địa phương cho thấy quá trình triển khai Nghị quyết 57 vẫn còn bộc lộ nhiều khó khăn. Ảnh: THANH TUYỀN

Theo kết quả khảo sát, tiến độ giải ngân ngân sách cho các hoạt động này còn rất hạn chế, phần lớn mới đạt dưới 1,0%, khả năng hoàn thành mục tiêu đề ra vẫn gặp nhiều thách thức, trong khi việc huy động nguồn lực xã hội chưa tương xứng để hiện thực hóa các chỉ tiêu mang tính đột phá mà Nghị quyết đã xác định.

Thực tế cũng cho thấy, thủ tục hành chính trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số hiện nay vẫn còn phức tạp, tạo ra nhiều trở ngại cho các chủ thể tham gia…

Ngoài ra, nhiều địa phương phản ánh rằng cơ chế chính sách mới tuy đã tạo thuận lợi, phần nào “cởi trói” cho đội ngũ nhà khoa học nhưng chưa thực sự giải tỏa rủi ro pháp lý và áp lực trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ quản lý, làm hạn chế tính chủ động, linh hoạt và hiệu quả trong tổ chức thực hiện.

Cũng theo TS Nguyễn Văn Nên, các địa phương đang rơi vào tình trạng thiếu hụt cán bộ có chuyên môn về công nghệ thông tin, dẫn đến hạn chế trong việc đảm bảo tính chính xác, kịp thời và hiệu quả của công tác báo cáo. Sau khi sắp xếp bộ máy, các địa phương xây dựng hệ thống chỉ tiêu thực hiện Nghị quyết 57 hầu như chỉ là sự cộng gộp chỉ tiêu của các địa phương cũ hay là sự “thỏa thuận” để thống nhất một con số chung cho tỉnh, thành mới.

Thiết lập cơ chế phân quyền, ủy quyền

Từ thực tế này, nhóm nghiên cứu đề xuất Trung ương cần phân bổ chỉ tiêu gắn với năng lực phát triển và khả năng huy động nguồn lực của từng địa phương.

Nhóm nghiên cứu cũng cho rằng cần sớm được luật hóa và chuẩn hóa rõ ràng các khái niệm liên quan đến hệ thống các chỉ tiêu và thuật ngữ trong Nghị quyết 57, nhằm bảo đảm tính thống nhất, minh bạch và khả thi trong thực thi. Đồng thời, cần thiết lập cơ chế phân quyền, ủy quyền rõ ràng đi kèm quy định bảo đảm an toàn pháp lý cho cán bộ quản lý, giúp họ mạnh dạn, linh hoạt trong triển khai.

 PGS.TS Đỗ Phú Trần Tình, Viện trưởng Viện Phát triển chính sách ĐHQG-HCM trao đổi ý kiến tại tọa đàm. Ảnh: THANH TUYỀN

PGS.TS Đỗ Phú Trần Tình, Viện trưởng Viện Phát triển chính sách ĐHQG-HCM trao đổi ý kiến tại tọa đàm. Ảnh: THANH TUYỀN

Bên cạnh đó, cần chú trọng đầu tư hạ tầng số đồng bộ, xây dựng trung tâm lưu trữ và chia sẻ dữ liệu tập trung, áp dụng giải pháp kỹ thuật để khắc phục tình trạng nghẽn mạng cục bộ. Việc bố trí đội ngũ chuyên trách công nghệ thông tin tại các cấp, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên... cũng là yếu tố cần thiết nhằm nâng cao năng lực số cho cán bộ làm báo cáo, tạo nền tảng vững chắc cho quản trị hiện đại, hiệu quả.

Quan trọng nhất, cần tạo bước đột phá mạnh mẽ trong thay đổi tư duy của lãnh đạo và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, coi đây là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa các mục tiêu mà Nghị quyết 57 đã đề ra về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

“Cần nuôi dưỡng tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, coi khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là công cụ quản trị hiệu quả, đồng thời chuyển biến tư duy từ quản lý sang phục vụ, từ hành chính sang kiến tạo phát triển” - TS Nên nhấn mạnh.

Nhiều ý kiến thảo luận tại tọa đàm thống nhất rằng, để Nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống, cần ưu tiên hoàn thiện thể chế, phát triển hạ tầng số, xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo vùng, thúc đẩy liên kết vùng. Nâng cao năng lực quản trị tri thức và phát triển đội ngũ trí thức có tư duy chiến lược, gắn kết chặt chẽ ba chủ thể Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp.

Bà Nguyễn Thị Thu Sương - Trưởng phòng Phát triển Khoa học công nghệ, Sở KH&CN TP.HCM cho rằng cần cơ chế vận hành hiệu quả mô hình hợp tác ba nhà, phải có sự liên kết chặt chẽ…

PGS.TS Đỗ Phú Trần Tình, Viện trưởng Viện Phát triển chính sách ĐHQG-HCM (Trường ĐH Kinh tế- Luật), cũng nhìn nhận bối cảnh hiện nay đòi hỏi các chuyên gia, nhà khoa học phải có sự phối hợp liên ngành, liên kết các nhà khoa học, viện, trường để tạo sự gắn kết cộng đồng, cùng giải quyết các bài toán của địa phương và vùng. Xa hơn, Trung ương cần hoàn thiện chính sách phát triển khoa học công nghệ của vùng, thể chế hóa về luật, nghị định…

Phát biểu bế mạc tọa đàm PGS.TS Đỗ Phú Trần Tình, Viện Phát triển chính sách ĐHQG-HCM, đánh giá các ý kiến đã đặt trọng tâm vào đổi mới thể chế, phát triển hạ tầng số, nâng cao năng lực quản trị tri thức và bồi đắp văn hóa đổi mới sáng tạo để hiện thực hóa Nghị quyết 57. Đây là những điều kiện cốt lõi nhằm đưa khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tạo nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới.

"Vai trò tiên phong của các trường đại học và viện nghiên cứu cần được tăng cường nhằm thúc đẩy kết nối tri thức, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo sức mạnh nội sinh cho đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia" - PGS.TS Đỗ Phú Trần Tình nói.

THANH TUYỀN

Nguồn PLO: https://plo.vn/ly-do-giai-ngan-chi-cho-khoa-hoc-cong-nghe-chua-den-1-post883944.html