Phát triển ngành gỗ ở ĐBSCL: thời cơ và thách thức
Năm 2023, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đạt khoảng 13,4 tỉ đô la Mỹ, chịu tác động từ suy giảm nhu cầu toàn cầu. Tuy nhiên, sang năm 2024, ngành gỗ đã bật dậy ấn tượng. Tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ năm 2024 ước đạt 16,25 tỉ đô la, tăng 20,3% so với năm trước, đưa Việt Nam tiếp tục giữ vững vị thế trong nhóm năm nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất thế giới.
Trong đó xuất khẩu đồ nội thất gỗ đạt 6,44 tỉ đô la, chiếm 40,5% tổng kim ngạch. Thị trường Mỹ vẫn dẫn đầu, chiếm trên 55% tổng xuất khẩu gỗ Việt Nam.

ĐBSCL đang ở thời điểm cần một tầm nhìn mới cho ngành gỗ. Ảnh: N.K
Dù xuất khẩu tăng trưởng tốt, ngành gỗ Việt Nam vẫn phụ thuộc đáng kể vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Năm 2024, nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ là 2,81 tỉ đô la, tăng 28,1% so với năm 2023. Riêng nhập khẩu nguyên liệu gỗ thô chiếm khoảng 2,4 tỉ đô la, tương đương 85,2% tổng kim ngạch nhập khẩu ngành. Nhập khẩu gỗ xẻ đạt 2,39 triệu mét khối, trị giá 923 triệu đô la, tăng 66,4% so với năm 2023. Sáu tháng đầu năm 2024, Việt Nam nhập 2,5 triệu mét khối gỗ, trị giá 838,4 triệu đô la - tăng mạnh cả về lượng và giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Trong khi đó, sản lượng gỗ rừng trồng trong nước vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Năm 2023 khai thác khoảng 20,8 triệu mét khối, năm 2024 tăng lên khoảng 23,3 triệu mét khối, nhưng vẫn còn thấp so với nhu cầu chế biến xuất khẩu. Điều này cho thấy bài toán nguyên liệu đang là hạn chế lớn nhất đối với ngành gỗ Việt Nam.
ĐBSCL đủ điều kiện để phát triển ngành trồng cây lấy gỗ
Tuy nhiên, khi nói đến trồng rừng hay phát triển ngành gỗ, người ta thường nghĩ ngay đến những vùng đồi núi phía Bắc hoặc Tây Nguyên - nơi có rừng tự nhiên, địa hình rộng lớn, khí hậu mát mẻ. Còn đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thì mặc định được xem là vùng “chỉ để trồng lúa, trồng cây ăn trái, nuôi tôm cá”. Quan niệm đó đã kéo dài hàng chục năm và trở thành một rào cản vô hình, khiến cho vùng đồng bằng trù phú nhất nước lại chưa từng được đặt trong chiến lược phát triển ngành lâm nghiệp - gỗ một cách nghiêm túc và bài bản.
Nếu nhìn sâu vào điều kiện tự nhiên, xã hội và kinh tế hiện nay, thì ĐBSCL đang cần - và hoàn toàn có thể - phát triển ngành trồng cây lấy gỗ và chế biến gỗ như một hướng đi bền vững trong tương lai. Do điều kiện địa chất hình thành đặc thù, nhiều vùng đất ở ĐBSCL - đặc biệt là dọc biên giới Việt Nam - Campuchia - có lớp phù sa trẻ mỏng, nằm trên tầng phù sa cổ nghèo dinh dưỡng hoặc bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Những vùng đất này trước đây vốn là đầm lầy, trũng thấp hoặc rừng ngập nước, chỉ mới được khai hoang trong vài thập niên gần đây. Dưới lớp đất mặt màu mỡ là tầng đất sét, tầng phèn tiềm tàng hoặc nhiễm mặn, khiến khả năng giữ dinh dưỡng và thoát nước của đất rất kém.
Những vùng đất biên giới này chịu ảnh hưởng mạnh của chế độ thủy văn sông Mêkông, lại xa nguồn nước ngọt, nên mùa khô thường thiếu nước nghiêm trọng, còn mùa mưa lại ngập sâu kéo dài. Đây là những vùng khó khăn cho nông nghiệp thâm canh, đặc biệt là với cây lúa cần nguồn nước ổn định và tầng đất canh tác giàu dinh dưỡng. Chính sự khắc nghiệt này khiến nhiều hộ dân rơi vào thế bấp bênh: năm được mùa, năm mất trắng; sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nặng nề vào thời tiết và thủy văn.
Trong vài chục năm qua, nhờ các chương trình khai hoang và thủy lợi hóa, vùng đất này được cải tạo để trồng lúa, đặc biệt là các mô hình lúa vụ ba ở những khu vực có đê bao khép kín. Lợi thế ban đầu là nguồn phù sa tự nhiên được bồi đắp hằng năm từ nước lũ, giúp bổ sung dinh dưỡng, cải tạo đất, nên người dân có thể trồng lúa 2-3 vụ/năm và vẫn có lợi nhuận.
Tuy nhiên, những năm gần đây do lũ thấp, cùng với quá trình xây dựng đê bao khép kín, vùng này không còn nhận được nguồn phù sa bồi đắp tự nhiên nữa. Nước lũ bị ngăn không cho tràn đồng, nên đất không được “nghỉ” và “tự phục hồi” như trước. Cộng thêm việc thâm canh tăng vụ liên tục, đất ngày càng bạc màu, mất cấu trúc, giảm độ phì. Để duy trì năng suất, nông dân phải tăng lượng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, khiến chi phí sản xuất tăng cao. Trong khi đó, giá phân bón liên tục leo thang, giá lúa bấp bênh, chi phí nhân công và xăng dầu tăng mạnh, làm cho hiệu quả kinh tế của cây lúa ngày càng giảm. Nhiều nơi, người dân canh tác chỉ “lấy công làm lời” hoặc thậm chí lỗ vốn, nhưng vẫn phải bám trụ vì chưa có hướng chuyển đổi phù hợp.
Cây lúa từng là biểu tượng của no đủ, nay lại trở thành gánh nặng cho nhiều hộ nông dân vùng đầu nguồn. Những thửa ruộng vốn được bồi đắp phù sa hàng năm giờ đây trở nên cằn cỗi, phải bơm nước, bón phân, phun thuốc liên tục - một vòng luẩn quẩn tiêu tốn sức người, tiền của mà vẫn không đem lại thu nhập ổn định. Tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn khi biến đổi khí hậu và hệ thống thủy điện trên thượng nguồn sông Mêkông ngày càng ảnh hưởng mạnh đến chế độ dòng chảy và phù sa của ĐBSCL. Nước lũ về muộn, lượng phù sa ít, trong khi mùa khô kéo dài, xâm nhập mặn lan sâu. Dòng chảy không còn ổn định khiến nhiều vùng đất đầu nguồn và trung tâm đồng bằng bị “khô hóa” tạm thời, trong khi các vùng ven biển thì ngập mặn quanh năm.
Sự biến đổi thất thường này không chỉ làm nông nghiệp mất tính ổn định, mà còn đe dọa sinh kế của hàng triệu người dân. Các hiện tượng cực đoan - như hạn mặn lịch sử năm 2016, ngập sâu năm 2020, hay lũ bất thường năm 2024-2025 - đã cho thấy ĐBSCL đang đứng trước những thách thức sinh thái chưa từng có.
Trước bối cảnh đó, việc chuyển đổi hệ thống canh tác là vấn đề sống còn đối với ĐBSCL, đặc biệt là vùng đầu nguồn và vùng đất đang trồng lúa nghèo dinh dưỡng. Nhiều mô hình đã được thử nghiệm - từ trồng sen, trồng rau màu, nuôi cá, trồng cây ăn trái, đến trồng dược liệu - nhưng hầu hết vẫn mang tính nhỏ lẻ, chưa tạo ra nguồn thu nhập ổn định và bền vững.
Ba nhóm rào cản lớn
Trong bức tranh đó, trồng cây lâu năm để lấy gỗ nhằm đáp ứng nhu cầu gỗ trong nước như một hướng đi mới và đầy tiềm năng. Đây là cách sử dụng đất bền vững, giảm áp lực canh tác ngắn ngày, giảm rủi ro do sự thay đổi thất thường của nguồn nước, đồng thời tạo sinh kế lâu dài cho người dân. Cây gỗ không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn giúp cải tạo đất, giữ nước, cân bằng sinh thái, góp phần chống biến đổi khí hậu - phù hợp với các chương trình quốc gia về phát triển “kinh tế xanh - nông nghiệp tuần hoàn - phát thải thấp”. Tuy nhiên, việc phát triển ngành gỗ ở ĐBSCL vẫn còn nhiều rào cản lớn, có thể chia thành ba nhóm chính:
Nhận thức xã hội chưa đúng đắn: Phần lớn các cấp chính quyền và người dân vẫn cho rằng “ĐBSCL không thể trồng rừng”, nên ngành gỗ chưa bao giờ được đưa vào quy hoạch phát triển chính thức. Điều này khiến thiếu định hướng dài hạn, thiếu chính sách khuyến khích, và thiếu cơ sở nghiên cứu ứng dụng phù hợp với đặc điểm đất đai, thủy văn của vùng.
Thiếu chương trình phát triển đồng bộ và sinh kế bền vững: Chưa có một chương trình phát triển lâm nghiệp đồng bằng nào được triển khai trên quy mô vùng. Những nhóm cộng đồng sống dựa vào khai thác tự nhiên - như khai thác cá, đánh bắt ven sông - vẫn thiếu việc làm thường xuyên. Họ có quỹ đất nhỏ hoặc không có đất, nên không đủ điều kiện trồng rừng đơn lẻ. Do đó, việc tổ chức chuỗi sản xuất cộng đồng (hợp tác xã, làng nghề) và liên kết doanh nghiệp - nông dân là điều cấp thiết để đảm bảo thu nhập ổn định trong giai đoạn đầu.
Thiếu cơ chế, chính sách và hạ tầng hỗ trợ: Đến nay, vẫn chưa có chính sách rõ ràng về chuyển đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả sang đất lâm nghiệp kinh tế. Các doanh nghiệp tư nhân chưa được khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực chế biến gỗ tại đồng bằng do thiếu quỹ đất, thiếu ưu đãi tín dụng, thiếu cơ sở hạ tầng. Hệ thống cảng biển, logistics, và chuỗi cung ứng gỗ còn yếu, khiến chi phí vận chuyển cao và không hấp dẫn nhà đầu tư.
Cần một tầm nhìn mới cho ngành gỗ
Tất cả những vấn đề trên cho thấy, ĐBSCL đang ở thời điểm cần một tầm nhìn mới cho ngành gỗ. Với địa hình bằng phẳng, giao thông thủy tiện lợi, nhân công sẵn có, vùng này hoàn toàn có thể phát triển một ngành công nghiệp gỗ - vật liệu xanh - chế biến sâu, tạo ra chuỗi giá trị khép kín từ trồng cây - chế biến - sản phẩm tiêu dùng - xuất khẩu.
Việc xây dựng chiến lược phát triển ngành gỗ cho ĐBSCL cần có một tầm nhìn cho toàn vùng, điều này không chỉ nhằm giải quyết bài toán nguyên liệu cho ngành gỗ hay chuyển đổi sinh kế ở cấp địa phương, mà còn hướng đến một mục tiêu lớn hơn. Đó là tái tạo lại mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên để thích nghi với sự thay đổi khó lường của nguồn nước, phục hồi cân bằng sinh thái vùng hạ lưu sông Mêkông, và đóng góp vào nỗ lực chuyển đổi kinh tế xanh của cả nước.
Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/phat-trien-nganh-go-o-dbscl-thoi-co-va-thach-thuc/











