Mâm cơm ngày Tết

Quê tôi ở Bạc Liêu, giáp bán đảo Cà Mau của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tôi thấy mâm cơm ngày Tết quê mình cứ hằn sâu trong tâm khảm, đi đâu, làm gì cũng nhớ khi mấy ngọn gió chớm xuân len lỏi kéo về.

Minh họa: KIỀU LOAN

Minh họa: KIỀU LOAN

Hồi tôi còn bé, khoảng 50-60 năm trước, đất nước chiến tranh, người dân ly tán, hồi đó gọi là đi tản cư. Sau này khi tổng kết chiến tranh, người ta tính được rằng, có khoảng 75% dân nông thôn phải lìa bỏ làng xóm, quê hương để vào các thị tứ, thị trấn, trục lộ 4 (quốc lộ trước năm 1975) hay chùa chiền… để thoát khỏi vùng chiến sự ác liệt. Gia đình tôi cũng phải đi tản cư vào những năm 1968. Tại chỗ mới người ta che chòi, dựng lều mà ở, đó là chùa Cái Giá, vùng Hưng Hội, Bạc Liêu, có đến cả ngàn người.

Khung cảnh tá túc đầy tạm bợ và vô cùng nhếch nhác. Thế nhưng, khi Tết về, tất cả những căn chòi, túp lều ấy đều làm tạm cái bàn thờ và nghi ngút khói hương suốt 3 ngày Tết. Và dĩ nhiên, trên cái bàn thờ nhìn “phát khóc” ấy là một mâm cơm rước ông bà chiều 30 Tết. Và trên đó cũng được để cặp dưa hấu trên hai nải chuối xiêm, gọi là trưng Tết, cùng với mấy bộ quần áo, giấy tiền, vàng mã và cặp đèn cầy.

Chỉ có vậy thôi mà cái Tết bỗng ngay trong túp lều. Và mùa xuân của trời đất vô cùng đẹp đẽ, bất kể sang hèn, bất kể chiến tranh ly loạn, khe khẽ gõ cửa bước vào từng căn chòi. Người quê thời loạn khoác đời ly hương bỗng ngơ ngác rồi tận hưởng mùa xuân mà ứa nước mắt khi chữ hiếu chưa thành, chữ xuân chưa vẹn. Rồi trong cái đêm trừ tịch ấy tràn ngập trong lòng những người ly hương một nỗi nhớ nhà, nhớ xóm, nhớ những cái Tết quê. Ở đó là một xóm nghèo, từng có những năm tháng không chiến tranh, không có những cái chết tức tưởi. Người quê bước vào những mùa xuân thanh bình thật là nôn nao, rộn rã, không thể nào quên được.

Quê tôi là một xóm nghèo, nằm trên bờ sông Bạc Liêu - Cà Mau. Ðất đai cứ chực chờ nhiễm mặn. Ðó là cái thời nguồn thu từ lúa là chủ đạo, nhưng lúa đạt năng suất 10 giạ/công tầm cấy, đã là trúng mùa. Làm rồi mùa, đa số dân làng trả nợ, ăn cái Tết là hết. 99% là nhà lá cột cặm cây rừng. Xóm nằm hướng mặt ra sông, sau lưng là cánh đồng rộng.

Tôi nhớ mỗi năm khi Tết nhất gần kề, 3 giờ khuya ba tôi đã nấu một bình trà bằng cỏ nước mặn phơi khô, rồi độc ẩm và nói chuyện một mình bằng những câu rên rỉ, không trả nợ được thằng cháu mười giạ lúa, lấy gì mà làm mùa năm tới. Má tôi cũng thế, cứ chắc lưỡi, hít hà, rên rỉ, tiền đâu mà ăn Tết, mà mua quần áo Tết cho mấy đứa nhỏ…

Thế nhưng lạ lắm, rồi thì Tết vẫn về và những người quê nghèo khó vẫn an bài được, vẫn vui với mùa xuân, bởi họ có cảnh sống của họ. Cảnh sống này đã thành nếp đối với nhiều thế hệ dân quê vùng bán đảo Cà Mau. Trước tiên hãy xem người ta tính toán mâm cỗ Tết như thế nào.

Bây giờ, món thịt heo kho tàu với trứng vịt đã bắt đầu thu hẹp dần trong các tiệc tùng, giỗ chạp. Trong các đám cưới thì không còn thấy nữa, có chăng là người ta làm cho đủ lễ và những người có tiền không dám ăn, vì sợ mập. Thế nhưng hồi đó, nói về mâm cơm ngày Tết, nó đứng ở ngôi thứ đầu bảng, là món xa xỉ, tốn kém nhất. Và đối với bọn trẻ con nhà nghèo chúng tôi, nó ngon như “sơn hào hải vị”.

Còn nhớ ngày xưa, vào dịp hệ trọng, những nhà giàu làm con heo ăn mừng là chứng tỏ ngay cái vị thế, cái đẳng cấp nhà giàu trong mắt chòm xóm. Thế nhưng, làng tôi vì nghèo nên chẳng ai dám làm con heo ăn Tết bao giờ. Chủ yếu, một cách làm quen thuộc là ở xóm có ai nuôi heo, vào dịp Tết, họ mần để chia lúa. Gia đình tôi suốt nhiều chục năm chia lúa thịt heo về ăn Tết, vì chẳng có tiền ra chợ mà mua. Cứ một ký thịt heo là một giạ lúa, bất kể thịt đùi, thịt ba rọi hay mỡ. Và phải trả lúa cho người bán heo vào vụ gặt tới. Sáng 30 Tết là ba tôi đi chia thịt heo đằng xóm. Hai, ba ký thịt ba rọi để nấu nồi thịt kho tàu; một đến hai ký mỡ là để gói bánh tét và một ký thịt đùi để làm cái lẩu ngọt cho mâm cơm rước ông bà chiều 30 Tết; một mâm cơm cúng đầu năm trên bàn gia tiên mừng năm mới vào sáng mùng Một.

Vậy đó, mà trong xóm có nhà nghèo quá không dám đi chia lúa thịt heo, vì không có điều kiện trả. Thế là họ làm vịt xiêm, lấy trứng vịt nhà đẻ mà kho nước dừa cũng thành nồi thịt kho tàu. Có nhà thiếu vịt xiêm thì cho cá lóc vào kho thêm. Vậy đó, sự cùng túng đã làm nên nồi thịt kho rệu phong phú, ăn cũng ngon, thậm chí là đặc biệt nữa.

Kèm theo món thịt kho tàu bắt buộc phải có là dưa giá. Những năm không tiền mua đậu xanh trút giá thì má tôi trồng cải tùa xại hoặc củ cải trắng rồi làm dưa chua một khạp to để dành ăn suốt những ngày Tết. Loại dưa chua này rất dễ ăn, ăn với thịt kho cũng được và nó biến thành món nhậu rất ngon khi ăn kèm với tôm khô thay cho củ kiệu.

Tôm khô - củ kiệu là món bây giờ, chứ hồi xưa có tôm khô, nhưng không có củ kiệu, vì nó mắc mỏ lắm, làng tôi không ai dám mua cả. Trong khi đó, có một chuyện ngược ngạo so với bây giờ là tép đất để chế biến tôm khô xịn nhất thời bây giờ thì đầy kênh rạch. Thế nên nhà nào cũng làm tôm khô cho mâm cơm Tết và cũng để đãi khách khứa suốt mùa Tết. Thậm chí ăn tôm khô hoài cũng chán, người quê làm thêm khô cá lóc, cá bổi, cá sặt bướm… cho món ăn ngày Tết thêm phong phú, bởi những loại khô này làm ra không tốn tiền.

Món thứ ba của mâm cơm ngày Tết là gà luộc. Món này thì không phải mua. Ở quê tôi người nghèo có cách sống đã thành nếp muôn thuở là họ nuôi gà, vịt để chuẩn bị cho cái Tết rất chu đáo. Như đã nói trên, thịt heo là thứ đắt đỏ nên nhà quê thường lấy thịt gà, vịt, thậm chí là tôm, cá để chế biến thay cho thịt heo ở những món không thể thiếu của mâm cơm Tết. Người ta dùng thịt gà, vịt bằm nhuyễn ra mà dồn vào khổ qua cho món khổ qua hầm. Nhà nghèo quá thì nấu tô canh chua cá lóc thay cho cái lẩu ngọt thịt heo hoặc dùng gà, vịt nấu cà ri nước cốt dừa.

Mâm cổ Tết ở bán đảo Cà Mau và vùng đồng bằng sông Cửu Long - một vùng đất từ xưa nổi tiếng dồi dào sản vật, nên nông dân nghèo sáng tạo nhiều món quê từ tôm, cá chứ không cố định...

Còn bánh trái cũng ít khi mua. Ngày xưa, gói bánh tét ăn Tết là một nếp sinh hoạt Tết đặc sắc, ổn định của nông thôn đồng bằng sông Cửu Long. Nguyên liệu thì trừ mỡ heo ra, tất cả là “cây nhà lá vườn”. Tôi nhớ 25 Tết là má tôi ra vườn chuối sau nhà tét lá rồi đem phơi, sẵn đó bà đốn luôn một quài chuối già vừa để trưng với cặp dưa hấu trên bàn thờ, vừa để làm nhân gói bánh tét. Hồi đó nhà nghèo không có tiền mua mỡ thì gói bánh tét nhân chuối thêm. Trước cúng, sau ăn, để cho con cháu có bánh tét mà ăn Tết với người ta.

Nhà quê nghèo nhưng xem ra bánh Tết cũng có mấy loại. Thường thấy là bánh bông lan và mứt dừa. Ngày xưa đường cũng là món hàng đắt đỏ mà túi tiền người quê không cho phép... Mãi đến thập niên 80-90 của thế kỷ 20, nông dân vùng Bạc Liêu, Cà Mau vẫn còn làm bánh bằng thứ đường chảy chứ làm gì dám xài đường cát. Dừa rám vỏ ở nhà trồng, cứ gần Tết là chế Hai tôi sai tôi trèo lên những cây dừa, chọn những trái dừa vừa cơm, gọi là dừa rám vỏ, để làm nguyên liệu sên mứt dừa. Nông dân làng tôi trồng lúa bao giờ cũng dành một, hai công đất cấy nếp để làm bánh trong những khi Tết nhất, giỗ chạp.

Tôi nhớ như in, chiều 27-28 Tết, chái bếp nhà tôi vui như mở hội. Mấy bà già trong xóm đến ngồi trên bộ ván để giúp má tôi gói bánh tét; các chị trong xóm thì giúp chị Hai tôi nướng bánh bông lan, sên mứt dừa. Họ xúm xít với nhau làm theo kiểu vần đổi công, hết nhà này đến nhà khác, vừa vui vừa mau lẹ công việc.

Một điều phải nói rằng, họ làm bánh rất đẹp, rất ngon. Sau này tôi mới hiểu rằng, cách vạn dần đổi công ấy nó trao truyền kinh nghiệm như em gái đi theo mẹ qua nhà hàng xóm gói bánh mà chơi, cũng là lúc những cô gái học nghề. Mẹ truyền cho con, dì truyền cho cháu. Nó giống như một thứ trường học nữ công gia chánh của người quê và nó được thêm nữa là tình làng nghĩa xóm ngày càng vun đầy.

Sau này em gái tôi lớn lên, gia đình cũng khấm khá một chút, thấy má tôi già yếu, nó đòi ra chợ mua bánh tét, bánh bông lan, mứt dừa... về cúng Tết. Mắt má tôi chợt buồn, vẻ mặt bần thần, hồi lâu bà mới nói: “Làng xóm mình từ xưa đến giờ sống vậy, làm vậy, mình làm khác sẽ lỗi nhịp với làng quê. Bánh trái là để cúng. Cái hiếu hạnh nằm trong đòn bánh tét cả con ơi”.

Bây giờ ngồi nhớ lại, thấy má tôi nói đúng. Không phải chỉ có đòn bánh tét mà cả mâm cơm ngày Tết của đồng bằng sông Cửu Long đều chứa nhiều mồ hôi công sức. Ðó là phẩm vật bằng lòng thành dâng lên cúng bái ông bà tổ tiên, trời đất trong năm mới, nên nó thật sự có ý nghĩa và chính từ đó mà xuân của chúng ta cũng thêm phần ý nghĩa./.

Phan Trung Nghĩa

Nguồn Cà Mau: https://baocamau.vn/mam-com-ngay-tet-a37005.html