Mặt bằng lãi suất thấp là chìa khóa thúc đẩy tín dụng

Các nhà phân tích tài chính cho rằng, theo chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại sẽ nỗ lực giảm lãi suất, hỗ trợ doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Song, chính sách điều hành lãi suất cũng cần cân đối với tỷ giá và lạm phát.

Ông Suan Teck Kin, Giám đốc Khối Nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, Ngân hàng UOB (Singapore)

Với mục tiêu tăng trưởng tín dụng mà ngành ngân hàng đưa ra là 16%, mặt bằng lãi suất sẽ duy trì ổn định để kích cầu tín dụng. Lạm phát và các yếu tố rủi ro khác vẫn trong phạm vi cho phép để ngành ngân hàng mở rộng các gói tín dụng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, USD vẫn sẽ tiếp tục mạnh lên dưới tác động của các chính sách của chính quyền ông Trump, nhất là khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) chưa vội cắt giảm lãi suất USD trong nửa đầu năm 2025. Chỉ số USD Index có thể tăng mạnh vào cuối tháng 3/2025, lập đỉnh mới vào cuối tháng 6 năm nay. Tuy nhiên, nửa sau năm 2025, chỉ số này sẽ bắt đầu đi xuống vì các chính sách của ông Trump đã rõ ràng và khó tác động mạnh hơn. Tỷ giá USD/VND có thể lên đến ngưỡng cao nhất là 26.000 trước khi hạ nhiệt.

Chính sách điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước lúc này nên là linh hoạt, cân đối với tỷ giá để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Ông Tim Leelahaphan, Chuyên gia kinh tế cấp cao Thái Lan và Việt Nam Standard Chartered

Chính phủ Việt Nam đã điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 lên ít nhất 8%, so với mức 6,5 - 7% được Quốc hội thông qua trước đó, với kỳ vọng lạm phát ở mức 4,5 - 5% nhằm tạo dư địa cho chính sách tiền tệ linh hoạt. Triển vọng tăng trưởng mạnh hơn có thể giúp duy trì lãi suất thấp trong ngắn hạn.

Tăng trưởng doanh số bán lẻ trong tháng 2 được dự báo ở mức 8,2% so với cùng kỳ (tháng 1 tăng trưởng 9,5%). Trong khi đó, tăng trưởng xuất khẩu có thể đạt mức 23,2% so với cùng kỳ, nhờ mức nền thấp và sự phục hồi liên tục của xuất khẩu hàng điện tử. Nhập khẩu và sản xuất công nghiệp có khả năng tăng lần lượt 24,0% và 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, thặng dư thương mại hàng tháng của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm thu hẹp còn khoảng 1,5 tỷ USD, giảm so với mức hơn 5 tỷ USD của cùng kỳ năm trước. Triển vọng kinh tế Việt Nam trong ngắn hạn, theo tôi, vẫn nên thận trọng, khi các chỉ số vĩ mô trong tháng 1 có dấu hiệu điều chỉnh cả trong và ngoài nước. Sự không chắc chắn trong các chính sách thương mại của Mỹ cũng tiềm ẩn rủi ro do Việt Nam có thặng dư thương mại lớn với Mỹ.

Ông Trần Hoàng Ngân, Đại biểu Quốc hội

Mục tiêu GDP tăng 8% trở lên trong năm 2025 được đánh giá là rất thách thức, song là điều kiện để Việt Nam trở thành quốc gia có mức thu nhập cao vào năm 2045.

Để thực hiện mục tiêu trên, Chính phủ cần kiên định thực hiện 3 đột phá chiến lược: thể chế, nhân lực, hạ tầng. Cụ thể, thể chế thông thoáng, thông minh; cơ chế thu hút nhân lực chất lượng cao; đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ. Đồng thời, cần phát huy 3 động lực tăng trưởng truyền thống: đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu.

Về đầu tư, theo mục tiêu cũ, năm 2025, tăng trưởng GDP từ 6,5 - 7%, với tổng vốn đầu tư xã hội là 171 tỷ USD; trong đó, đầu tư công 33 tỷ USD. Mục tiêu mới là tăng trưởng GDP 8%, tổng vốn đầu tư xã hội là 174 tỷ USD, trong đó đầu tư công 36 tỷ USD, tăng thêm 9%. Theo số liệu thống kê trước đây, khi đầu tư công tăng thêm 10% sẽ góp phần tăng trưởng GDP khoảng 0,6%. Vì khu vực dân doanh chiếm trên 55% tổng vốn đầu tư xã hội, do đó, phải có gói giải pháp đồng bộ để huy động vốn đầu tư từ khu vực dân doanh, gồm giảm tiền thuê đất, phí, thuế, bảo lãnh tín dụng, lãi suất tín dụng hợp lý.

Đáng chú ý, năm nay, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra định hướng tăng trưởng tín dụng khoảng 16% và ước tính có hơn 2,5 triệu tỷ đồng được bơm vào nền kinh tế. Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách tích cực nhằm hỗ trợ về vốn, giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn tốt nhất.

Để tăng trưởng nhanh, bền vững, chính sách tài khóa cần chặt chẽ, tiết kiệm chi thường xuyên, ưu tiên vốn đầu tư phát triển. Chính sách tiền tệ cần linh hoạt theo mục tiêu tăng trưởng và lạm phát, đảm bảo chất lượng tín dụng. Cung tiền và tăng trưởng tín dụng có kiểm soát, không để tăng quá cao như giai đoạn 2000 - 2010 (dư nợ tăng bình quân 30%/năm, kinh tế tăng trưởng 7,3%); kiểm soát lạm phát trong mục tiêu.

PGS. TS. Trần Hùng Sơn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển công nghệ ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế - Luật

Thực hiện chủ trương của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các ngân hàng tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cùng với đó, lạm phát đang được kiểm soát ở mức phù hợp thì khả năng mặt bằng lãi suất khó tăng trong năm nay, kể cả lãi suất điều hành. Hiện tỷ giá có áp lực khi Fed giảm lộ trình cắt giảm lãi suất, song nhà điều hành sẽ cân bằng được bài toán lãi suất và tỷ giá. Mặt bằng lãi suất thấp cùng với các giải pháp đi kèm sẽ thúc đẩy tín dụng.

Hơn 2 thập kỷ qua, tăng trưởng kinh tế Việt Nam luôn đi cùng với sự tăng trưởng của tín dụng ngân hàng. Tốc độ tăng trưởng bình quân của tín dụng trong 10 năm gần đây là hơn 14% (cao hơn 2,4 lần tăng trưởng GDP). Tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam (hơn 136% trong năm 2024) cao hơn các nước ASEAN-5 và các nước có cùng mức độ phát triển.

Trong khi đó, nghiên cứu của BIS (2024) ở các nền kinh tế mới nổi tại châu Á cho thấy, nếu quy mô tín dụng/GDP vượt ngưỡng 130% thì tín dụng sẽ kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế bình quân của Việt Nam trong 20 năm qua đạt mức cao nhất khi tỷ lệ tín dụng/GDP đạt gần mức 100% và có xu hướng suy giảm khi tỷ lệ tín dụng/GDP vượt qua ngưỡng này.

Quy mô tín dụng ngân hàng đang tiến đến điểm ngưỡng tiếp tục gia tăng, có thể tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế. Chưa kể, thị trường vốn phát triển thấp, làm hạn chế nguồn tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp vẫn phụ thuộc vào tài trợ nội bộ cho đầu tư, cần cải thiện tiếp cận tài chính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tiếp cận tài chính hiện không hoàn toàn là ràng buộc chặt đối với tăng trưởng, nhưng rất có khả năng là ràng buộc trọng yếu khi nền kinh tế vào pha tăng trưởng cao.

Chính sách tín dụng trong giai đoạn tới cần hướng vào các ngành dịch vụ có tính chất đổi mới, sáng tạo toàn cầu, như công nghệ thông tin - truyền thông, hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đầu vào cho lĩnh vực chế biến, tăng năng suất của ngành và của nền kinh tế.

Để tăng hiệu quả của tín dụng trong ngắn hạn, cần cải thiện tiếp cận vốn của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thông qua việc thành lập, phát triển các trung tâm cung cấp thông tin tín nhiệm, với các ứng dụng công nghệ số mới. Cần phát triển các nền tảng cho vay số, nhanh chóng ban hành cơ chế thí điểm đối với công nghệ tài chính.

Thùy Vinh thực hiện.

Nguồn ĐTCK: https://tinnhanhchungkhoan.vn/mat-bang-lai-suat-thap-la-chia-khoa-thuc-day-tin-dung-post364975.html