Một phường có... hai kinh đô

Có những vùng đất mà lịch sử không chỉ được kể lại bằng lời hay ghi chép qua sách sử mà hiện hữu sống động qua từng phiến đá, vết rêu phong. Phường An Nhơn - miền 'đất Vua' là một trong những nơi như thế. Nơi đây, quá khứ từng hai lần mang trọng trách kinh đô, vẫn bền bỉ lưu giữ những trầm tích văn hóa sâu dày.

Ký ức chưa mờ

Thành Hoàng Đế ở phường An Nhơn, tỉnh Gia Lai (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định cũ), khách vừa bước chân qua cổng thành lập tức bị bao phủ bởi một không gian cổ kính, trầm mặc. Bước chân như chậm lại, men theo dòng lịch sử sống động từng viên gạch, lớp đá ong nhuốm màu thời gian.

 Dấu tích kinh thành xưa. Ảnh: Trương Định

Dấu tích kinh thành xưa. Ảnh: Trương Định

Đứng giữa Tử Cấm Thành, nơi từng là trung tâm quyền lực của vua Thái Đức - Nguyễn Nhạc, vị vua đầu tiên của triều đại Tây Sơn, cảm giác như đang đứng giữa “giao lộ” của quá khứ và hiện tại, nhắc nhớ một thời hào khí ngất trời của đất võ Bình Định cũ.

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất mang đậm dấu ấn lịch sử này, ông Trần Công Chức, 74 tuổi, chia sẻ với giọng nói trầm ấm nhưng đầy xúc cảm: “Đây là niềm tự hào không chỉ của riêng tôi, mà còn là điều thiêng liêng mà tôi tin rằng các thế hệ con cháu sau này sẽ luôn gìn giữ”.

Trong ký ức của ông Chức, tuổi thơ là những ngày rong ruổi cùng lũ trẻ trong làng vào kinh thành vui chơi, những ký ức ấy tưởng như đã ngủ yên, nhưng giờ đây, qua lời kể của ông lại sống lại và đầy màu sắc. Khi mái tóc đã bạc theo năm tháng, ông vẫn không quên nhắc nhở con cháu về tình yêu mảnh đất cũng như niềm tự hào “người đất Vua”.

 Lò rượu Bàu Đá vẫn luôn tỏa khói trong nhà bà Đặng Thị Kim Cương

Lò rượu Bàu Đá vẫn luôn tỏa khói trong nhà bà Đặng Thị Kim Cương

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Văn Ngọc, cũng là một người con vùng đất An Nhơn, tùy vào từng giai đoạn mà vùng đất kinh thành này có nhiều tên gọi khác nhau, như: Đồ Bàn, Hoàng Đế, Quy Nhơn, Bình Định.

Năm 1778, nhà Tây Sơn sau khi giải phóng các vùng đất từ Quảng Nam đến Ninh Thuận đã định đô ở đây. Thành Đồ Bàn được cải tạo, mở rộng và đổi tên thành Thành Hoàng Đế, trở thành trung tâm chính trị, quân sự trọng yếu của triều Tây Sơn. Chỉ đến năm 1799, khi Nguyễn Ánh chiếm thành và đổi tên thành Bình Định, trang sử vàng mới chính thức khép lại, nhường chỗ cho một triều đại khác.

Giữa thời đại công nghệ và thị trường bộn bề đổi thay, vùng đất An Nhơn vẫn lặng lẽ giữ cho mình những giá trị vốn có, đó là nghề, là văn hóa, là khí chất của một vùng đất kinh xưa, từng là nơi khởi phát phong trào Tây Sơn lừng lẫy. “Đất Vua” hay “Đất trăm nghề” không chỉ là lời khen, mà là sự công nhận, là biểu tượng...

Không chỉ là di tích, Thành Hoàng Đế còn là điểm kết nối của những dòng chảy văn hóa xuyên suốt hơn một thiên niên kỷ. Từ kiến trúc Chămpa, Tây Sơn cho tới nhà Nguyễn, thành mang nhiều lớp cấu trúc đan xen, như một lớp trầm tích lịch sử được xếp chồng lên nhau.

Là di tích mang tính kế thừa, Thành Hoàng Đế đan xen nhiều lớp kiến trúc khác nhau. Thành Hoàng Đế nguyên là một tổng thể kiến trúc hình chữ nhật, gồm ba vòng thành: Thành Ngoại, Thành Nội và Tử Cấm Thành. Thành ngoại có chu vi là 7.400m. Thành nội còn được gọi là Hoàng Thành có hình chữ nhật dài 430m, rộng 370m. Bên trong Thành Nội là Tử Cấm Thành cũng có hình chữ nhật dài 174m, rộng 126m.

Sau khi triều đại Tây Sơn thất bại, Thành Hoàng Đế dấu tích một thời vàng son của Tây Sơn cũng bị phá, đổ nát.

Ông Bùi Tĩnh, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Gia Lai cho biết, nơi đây đã trải qua 6 lần khai quật khảo cổ. Những phát hiện quan trọng như hai hồ bán nguyệt, dấu tích kiến trúc Tây Sơn trong khu Tử Cấm Thành, đã giúp phục dựng hình hài nguyên gốc và giá trị đặc sắc của di tích. Năm 1982, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã xếp hạng Thành Hoàng Đế là Di tích lịch sử cấp Quốc gia.

Trăm nghề giữa kinh xưa

Không phải ngẫu nhiên mà An Nhơn xưa được mệnh danh là vùng đất trăm nghề từng nức tiếng cả nước. Dù không còn quá nhộn nhịp, nhưng nơi đây vẫn hiện hữu hơi thở của một vùng kinh kỳ với nhiều ngành nghề được lưu truyền cho đến ngày nay, như gốm, đúc đồng, vóc vải, đan lát, dệt, chằm nón, tiện đồ gỗ mỹ nghệ, khảm xà cừ, bún, bánh…

Trong đó, rượu Bàu Đá là một trong những cái tên nổi bật nhất.

Ngược về Cù Lâm (xã An Nhơn Tây) “thủ phủ” của rượu Bàu Đá giữa cái nắng gay gắt đầu hè. Trong ngôi nhà mái ngói, mùi men rượu quyện với mùi khói bếp tạo nên thứ hương vị thân thuộc, khó tả. Bà Đặng Thị Kim Cương 44 tuổi, một trong những người còn nặng lòng với nghề nấu rượu thủ công, tay vừa đảo đều nồi cơm gạo đang ủ men, vừa chậm rãi: “Người ta thường nói nghề này có khó gì đâu, ai nấu chẳng được. Nhưng đâu biết rằng cái cốt là ở nguồn nước dùng để nấu rượu. Nước nơi đây đặc biệt lắm. Thôn Cù Lâm may mắn được thiên nhiên ban tặng nguồn nước, rượu nấu ở đây có hương vị rất đặc trưng, thơm ngon. Rượu sau khi nấu, nếu muốn ngon hơn, uống dịu hơn thì đem đi ủ trong lu (vò) một thời gian nữa”.

Nói rồi, bà rót ra chén sứ nhỏ. Chén rượu sóng sánh như ngọn lửa lặng im. Nhấp một ngụm, vị cay lan tỏa, rồi bùng lên nóng ấm cả cơ thể.

 Bờ thành cổ bền bỉ cùng năm tháng. Ảnh: Trương Định

Bờ thành cổ bền bỉ cùng năm tháng. Ảnh: Trương Định

Không xa Cù Lâm, dọc bờ sông Kôn, làng nghề bánh bún An Thái cũng đang từng ngày gìn giữ một phần hồn cốt quê nhà. Từ mờ sáng, làn khói trắng đã phủ đầy những nếp nhà. Âm thanh rộn ràng của tiếng xay bột, tiếng đổ khuôn vang vọng bên sông. Trải qua nhiều trăm năm, nghề làm bánh bún ở đây đã trở thành hơi thở gắn liền với từng nếp nhà. Đặc biệt, An Thái còn tự hào là cái nôi của bún Song Thằn, loại bún làm từ đậu xanh nguyên chất, từng được chọn làm phẩm vật tiến Vua.

Trong làn khói bếp, bà Hồ Thị Hương 65 tuổi đều tay rải từng mẻ bún lên vỉ tre, để kịp đưa ra sân phơi nắng sớm. Gần nửa thế kỷ gắn bó với nghề, bà Hương bảo: “Mấy chục năm rồi vẫn vậy, nghề vẫn thế, nhưng lớp trẻ giờ không còn mặn mà nữa. Nghề cực quá. Vài năm nữa không biết có còn ai làm”. Câu chuyện của bà Hương không phải chuyện riêng của An Thái. Đó là nỗi lo chung của nhiều làng nghề truyền thống ở vùng đất An Nhơn…

Một điều điều đặc biệt là làng nghề ở vùng đất An Nhơn thường gắn với tục thờ tổ nghề, những ngày lễ hội rộn ràng khói hương vào dịp đầu năm âm lịch. Đây không chỉ là tín ngưỡng, mà còn là sự tri ân quá khứ, là lời nhắc nhở hậu thế về một truyền thống cha ông để lại. Giờ đây, chính quyền địa phương cũng đang nỗ lực giữ gìn. Nhiều làng nghề đã được quy hoạch, hỗ trợ xúc tiến thương mại, đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử, tham gia các hội chợ đặc sản vùng miền…

“Là một tòa thành từng hai lần giữ vai trò kinh đô trong lịch sử, hiện còn khá đầy đủ những kiến trúc, văn hóa vật thể và phi vật thể mang giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, Thành Hoàng Đế không những là điểm đến nổi bật trong những vùng kinh đô cổ của đất nước, mà còn rất xứng đáng được quy hoạch, tôn tạo, gìn giữ, lan tỏa vẻ đẹp vùng đất An Nhơn kinh kỳ” . Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Ngọc

TRƯƠNG ĐỊNH

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/mot-phuong-co-hai-kinh-do-post1773365.tpo