Một số kết quả trong triển khai thực hiện Nghị quyết 36 về phát triển bền vững kinh tế biển

Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 22/10/2018, Hội nghị Trung ương 8 khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định rõ quan điểm, mục tiêu, các chủ trương lớn, khâu đột phá và các giải pháp chủ yếu trong phát triển kinh tế biển để đến năm 2045 Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn.

Việt Nam là quốc gia có chiều dài bờ biển hơn 3.260km chạy từ Bắc - Nam qua 28 tỉnh, thành phố. Thông qua việc triển khai thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW, kinh tế biển đã có sự phát triển quan trọng, tạo ra những động lực phát triển cho từng địa phương và cả nước.

Nghị quyết 36-NQ/TW là cơ sở quan trọng để các địa phương ven biển lãnh đạo, chỉ đạo phát triển bền vững kinh tế biển hiệu quả hơn, đồng bộ hơn. Đến nay, sau 4 năm triển khai, kết quả tổng kết cho thấy, hệ thống kết cấu hạ tầng ven biển được quan tâm đầu tư; đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng biển được cải thiện. Các hoạt động nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, phát triển nguồn nhân lực về biển đạt được nhiều kết quả tích cực. Công tác quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên môi trường biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng được chú trọng.

Các ngành kinh tế biển từng bước trở thành động lực cho phát triển kinh tế-xã hội: Du lịch biển đảo mang lại 70% doanh thu cho ngành du lịch cả nước. Vận tải hàng hóa đường biển đạt hơn 85 triệu tấn. Sản lượng khai thác dầu khí đạt 18,43 triệu tấn (dầu thô đạt 10,97 triệu tấn). Sản lượng thủy sản khai thác đạt 3.920 nghìn tấn; nuôi trồng đạt hơn 4.805 nghìn tấn...

Cả nước hiện có 18/19 khu kinh tế ven biển nằm trong quy hoạch đã được thành lập. Đã hình thành chuỗi đô thị biển với gần 600 đô thị, chiếm khoảng 8% số lượng đô thị cả nước với dân số khoảng 19 triệu người.

Đặc biệt, thông qua triển khai thực hiện Nghị quyết 36, quy hoạch không gian biển quốc gia được định hướng phân vùng, sử dụng không gian biển bảo đảm hài hòa giữa phát triển và bảo tồn, lợi ích giữa các bên liên quan, các thế hệ hôm nay và mai sau; từng bước xây dựng liên kết, hình thành 4 vùng kinh tế ven biển, bao gồm vùng biển và ven biển phía Bắc; Bắc Trung Bộ, duyên hải Trung Bộ; Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ.

Công tác bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học biển được tăng cường; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và phòng, chống thiên tai. Đến nay, cả nước có 12 khu bảo tồn biển đã được thành lập với tổng diện tích hơn 206 nghìn ha, trong đó có 185 nghìn ha biển. Các địa phương đã quan tâm, chú ý nhiều hơn tới việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò của biển và kinh tế biển; từng bước hình thành các cộng đồng văn minh, văn hóa sinh thái biển ở nhiều địa phương.

Hợp tác quốc tế về phát triển bền vững kinh tế biển, bảo vệ môi trường biển được tăng cường. Việt Nam đã tham gia nhiều diễn đàn khu vực và thế giới về kinh tế biển xanh, chống rác thải nhựa biển, bảo vệ, bảo tồn các hệ sinh thái biển.

Kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết 36 ở một số địa phương có biển đã thực sự mang lại những lợi ích tích cực.

Tại Bà Rịa - Vũng Tàu, với bờ biển dài khoảng 305,4km, trong đó khoảng 156km có bãi cát thoải, nước xanh có thể sử dụng làm bãi tắm quanh năm, thuận lợi phát triển du lịch biển. Ngoài ra, vùng biển của tỉnh có thềm lục địa với diện tích trên 100 nghìn km2, mang lại nhiều tiềm năng để phát triển các ngành kinh tế biển: Khai thác dầu khí, khai thác hải sản, vận tải biển... Trong những năm qua, kinh tế biển của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã được tập trung đầu tư phát triển. Theo đó, hiện trên địa bàn tỉnh đã có 57 bến cảng được quy hoạch; trong đó đã đưa vào khai thác 28 bến cảng với tổng vốn đầu tư khoảng 2 tỷ USD và tổng chiều dài cầu bến 11,6km. Riêng khu vực Cái Mép-Thị Vải có 35 bến cảng, hiện đã đưa vào khai thác 17 bến cảng.

Hiệu quả hoạt động của hệ thống cảng biển trên địa bàn tỉnh đang ngày càng được nâng lên, tổng công suất khai thác của hệ thống cảng năm 2020 đạt 90 triệu tấn/năm; dự kiến năm 2025 đạt khoảng 133-149 triệu tấn/năm; năm 2030 khoảng 161-195 triệu tấn/năm.

Cùng với phát triển cảng biển, ngành dịch vụ hậu cần cảng tại Bà Rịa - Vũng Tàu đã có những chuyển biến tích cực, từng bước hình thành hệ sinh thái logistics. Hiện tỉnh đã có 20 dự án kho bãi logistics đi vào hoạt động với tổng diện tích chiếm đất khoảng 224ha.

Công tác quy hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ 1/2.000, Trung tâm logistics Cái Mép Hạ đã hoàn thành, đây là cơ sở pháp lý để lựa chọn nhà đầu tư có năng lực tham gia đầu tư xây dựng, kết nối Bà Rịa-Vũng Tàu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Ngoài ra, ngành du lịch tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cũng có sự phát triển ấn tượng khi có lượng khách tăng trưởng bình quân hơn 12,9%/năm, trong đó phần lớn lượng khách đến vùng biển đảo. Tổng thu từ khách du lịch tăng bình quân trên 15,9%/năm.

Không chỉ vậy, với lợi thế diện tích vùng biển và ven biển rộng lớn, điều kiện tự nhiên thuận lợi, Bà Rịa - Vũng Tàu đã chú trọng đến phát triển nuôi trồng thủy sản. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2017-2020 đạt 4,52%/năm. Diện tích nuôi thủy sản nước mặn và nước lợ của tỉnh hiện lên đến 4.492ha với sản lượng đạt hơn 11.000 tấn/năm. Trong đó, khoảng 3.900ha mặt nước đang nuôi trồng các loại tôm sú, thẻ chân trắng... có giá trị kinh tế và mang lại lợi nhuận cao cho người nuôi, đặc biệt là khi bà con ứng dụng công nghệ cao vào nuôi trồng.

Tại Kiên Giang, nằm ở phía Tây Nam của Tổ quốc, Kiên Giang có hệ sinh thái vùng ngập mặn phong phú và đa dạng. Vùng biển Kiên Giang rộng lớn với diện tích trên 63 nghìn km2, bờ biển dài khoảng 200km, với hơn 140 đảo nổi lớn, nhỏ, tạo thành 5 quần đảo, trong đó đảo lớn nhất là đảo Phú Quốc. Nhờ triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 36 kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội vùng ven biển và hải đảo của tỉnh đã được quan tâm đầu tư xây dựng.

Giai đoạn 2016-2020, Kiên Giang huy động 140 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư vùng biển, đảo, chiếm 80% nhu cầu vốn đầu tư toàn tỉnh. Nhiều dự án, công trình lớn đã được triển khai, hoàn thành đưa vào sử dụng như cầu Cái Lớn-Cái Bé; lưới điện quốc gia ra các đảo Phú Quốc, Hòn Tre, Lại Sơn, Hòn Nghệ, Sơn Hải...

Đặc biệt, thành phố Phú Quốc, là thành phố biển đảo đầu tiên của Việt Nam, được quan tâm đầu tư với nhiều dự án, công trình quan trọng như: Cảng hàng không quốc tế Phú Quốc, cảng Bãi Vòng, cảng An Thới, hệ thống giao thông, cấp điện, cấp nước...; Nhiều khách sạn, khu nghỉ dưỡng cao cấp, khu vui chơi giải trí lớn được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng, phục vụ du khách trong nước và quốc tế… góp phần để du lịch biển Kiên Giang những năm gần đây có bước phát triển khá mạnh, với tổng lượng khách du lịch giai đoạn 2015-2020 đạt 40,8 triệu lượt, đạt tổng doanh thu trên 70 nghìn tỷ đồng.

Tỉnh cũng đã hoàn thành nhiều công trình thủy lợi vùng ven biển phục vụ nuôi trồng thủy sản; các công trình gia cố đê biển; đầu tư phát triển hệ thống điện, nước, nâng tỷ lệ hộ dân được sử dụng điện vùng ven biển, hải đảo đến nay đạt 99,1%, hộ sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 81%. Cũng nhờ Nghị quyết 36, Tỉnh đã triển khai xây dựng 8 dự án mang tính cấp thiết ứng phó với biển đổi khí hậu, như nâng cấp đê biển từ Hà Tiên đến Tiểu Dừa (An Minh), khôi phục và phát triển rừng phòng hộ ven biển, quản lý tổng hợp vùng bờ...

Tại Bến Tre, nhờ triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 36-NQ/TW đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, thu hút nguồn lực đầu tư vùng ven biển của tỉnh. Trong đó, tỉnh đã tăng cường triển khai đồng bộ các khâu đột phá về phát triển bền vững kinh tế biển được nêu tại Nghị quyết số 36-NQ/TW, gồm: Hoàn thiện thể chế phát triển bền vững kinh tế biển; phát triển khoa học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao; phát triển kết cấu hạ tầng đa mục tiêu, đồng bộ, mạng lưới giao thông kết nối các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, các khu công nghiệp, khu đô thị, các vùng biển với cảng biển. Kết quả thực hiện đến nay, trên địa bàn 3 huyện ven biển gồm: Thạnh Phú, Ba Tri và Bình Đại có 5 cụm công nghiệp đã thành lập, với tổng diện tích 120,968 ha. Các cụm công nghiệp thu hút được 12 dự án thứ cấp tổng vốn đăng ký đầu tư khoảng 943,629 tỷ đồng.

Đáng chú ý, chỉ tính trong hơn hai năm 2020-2022, UBND tỉnh Bến Tre bố trí ngân sách nhà nước hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng cho ba huyện ven biển khoảng 3.942 tỷ đồng. Trong số các dự án bố trí vốn có các dự án quan trọng, góp phần phát triển kinh tế- xã hội của địa phương như: Dự án xây dựng đê bao ngăn mặn kết hợp đường giao thông nối liền các huyện biển Bình Đại - Ba Tri - Thạnh Phú; Dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Khu Công nghiệp Phú Thuận…

Tại Phú Yên: Là tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, tỉnh có bờ biển dài 189km, với ngư trường rộng, nguồn thủy sản phong phú; nhiều đầm vịnh kín gió, thuận lợi cho nuôi trồng, khai thác thủy sản, phát triển dịch vụ du lịch và cảng biển. Khu vực ven biển của tỉnh Phú Yên phát triển mạnh, là đầu tàu kinh tế với tốc độ tăng trưởng bình quân trên 10,5%/năm; thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư, đóng góp trên 65% giá trị GDP và trên 75% ngân sách tỉnh.

Kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, du lịch được quan tâm đầu tư tương đối đồng bộ, phục vụ tốt công tác thu hút đầu tư, phát triển kinh tế-xã hội khu vực ven biển. Hoạt động khai thác, nuôi trồng thủy sản gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển được đẩy mạnh. Sản lượng đánh bắt hàng năm trên 60.000 tấn, trong đó cá ngừ đại dương đạt trên 6.000 tấn có giá trị kinh tế cao. Nuôi trồng thủy sản đã phát triển thành một nghề sản xuất chính, cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu khoảng 8.000 tấn/năm, với các loại hải sản có giá trị như tôm sú, tôm thẻ chân trắng, tôm hùm, cá mú...

Công nghiệp ven biển từng bước phát triển; hình thành 5 khu công nghiệp tập trung, tổng diện tích hơn 460ha, đã có hơn 80 dự án đầu tư, tỷ lệ đăng ký đầu tư lấp đầy khoảng 77%. Đặc biệt, Khu kinh tế Nam Phú Yên là một trong tám Khu kinh tế ven biển trọng điểm của cả nước được đầu tư hạ tầng tương đối đồng bộ.

Ngoài Cảng biển Vũng Rô được đầu tư, nâng cấp, tiếp nhận tàu có tải trọng đến 3.000DWT, năng lực khai thác hàng hóa đạt hơn 700 nghìn tấn/năm, Phú Yên còn có quy hoạch Cảng biển nước sâu Bãi Gốc tiếp nhận tàu có trọng tải đến 50 nghìn tấn. Hạ tầng phục vụ du lịch được chú trọng đầu tư, toàn tỉnh hiện có hơn 370 cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch, với hơn 6.000 buồng đạt tiêu chuẩn từ 4-5 sao; tổng lượt khách du lịch đến tỉnh đạt khoảng 1,83 triệu lượt/năm...

Tỉnh Quảng Ninh: Có vị trí chiến lược quan trọng trong Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, với chiều dài bờ biển trên 250 km, tỉnh cũng là một trong những địa phương đạt được nhiều kết quả tích cực trong phát triển kinh tế biển. Trong đó, để triển khai thực hiện Nghị quyết 36, những năm qua, Tỉnh ủy Quảng Ninh đã ban hành hàng loạt các Kế hoạch, Chương trình hành động phát triển kinh tế biển, gần đây nhất là Chương trình hành động số 27-CTr/TW ngày 27/3/2019 thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên địa bàn tỉnh.

Nhờ có những cơ chế, chính sách, giải pháp hiệu quả, tỉnh Quảng Ninh đã đạt được một số kết quả nổi bật trong phát triển kinh tế biển, nhất là trong giai đoạn 5 năm (2015 - 2020). Trong đó, ngành du lịch và dịch vụ biển ngày càng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành dịch vụ từ 43,1% năm 2015 lên 44,6% năm 2020. Kinh tế hàng hải có sự phát triển, trong đó dịch vụ vận tải, cảng biển và hậu cần cảng biển có bước phát triển mới, với hệ thống cảng biển hiện đại như: Cảng tàu khách quốc tế Tuần Châu, cảng tàu khách quốc tế Hòn Gai, cảng Cửa Ông, cảng Cái Lân, cảng biển Hải Hà... Hình thành, phát triển các khu kinh tế (KKT) ven biển như: KKT cửa khẩu Móng Cái, KKT Vân Đồn, KKT ven biển Quảng Yên, khu công nghiệp (KCN) cảng biển Hải Hà... Nhờ đó, đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn 2015 - 2020, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân 5 năm đạt 10,7%, tổng thu ngân sách Nhà nước tăng 29,56% so với giai đoạn 2011- 2015…

Có thể thấy, Nghị quyết 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 chính là “kim chỉ nam” cho phát triển kinh tế biển Việt Nam nói chung và của mỗi địa phương có biển, ven biển nói riêng. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết đã mang lại những hiệu quả tích cực đối với kinh tế - xã hội mỗi địa phương, đồng thời hướng tới đạt được mục tiêu phát triển kinh tế biển xanh gắn liền với việc bảo vệ môi trường biển của Việt Nam./.

Theo consosukien.vn

Nguồn Tài Chính: http://tapchitaichinh.vn/mot-so-ket-qua-trong-trien-khai-thuc-hien-nghi-quyet-36-ve-phat-trien-ben-vung-kinh-te-bien.html