Mức doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT sẽ do Chính phủ quy định
Tiếp tục Kỳ họp thứ 7, chiều 17/6, Quốc hội nghe Chính phủ và cơ quan thẩm tra báo cáo về dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi).
Hoàn thiện quy định để bao quát toàn bộ các nguồn thu
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, dự thảo Luật thuế GTGT (sửa đổi) gồm 4 Chương, 18 Điều.
Theo đó, Dự án Luật được xây dựng với mục đích hoàn thiện quy định về chính sách thuế GTGT để bao quát toàn bộ các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu; bảo đảm tính minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện Luật để góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả của hoạt động quản lý thuế trong phòng, chống trốn thuế, thất thu và nợ thuế; đảm bảo thu đúng thu đủ vào NSNN, đảm bảo ổn định nguồn thu NSNN.
Cùng với đó, việc sửa đổi luật cũng nhằm khắc phục các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện Luật thuế GTGT thời gian qua; tháo gỡ bất cập, chồng chéo trong hệ thống pháp luật thuế GTGT và bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các pháp luật liên quan; bảo đảm tính khả thi, minh bạch và thuận lợi cho tổ chức thực hiện, khơi thông, phát huy nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; phù hợp với xu hướng cải cách thuế của quốc tế.
Dự thảo Luật về cơ bản vẫn được kế thừa từ Luật hiện hành nhưng có chỉnh lý, bổ sung cho phù hợp với nội dung chính sách. Theo đó, dự thảo Luật: Giữ nguyên nội dung quy định tại 5 Điều của Luật thuế GTGT hiện hành gồm: phạm vi điều chỉnh (Điều 1); thuế GTGT (Điều 2); đối tượng chịu thuế (Điều 3); căn cứ tính thuế (Điều 6); phương pháp tính thuế (Điều 9).
Sửa đổi, bổ sung các nội dung quy định tại 11 Điều của Luật thuế GTGT hiện hành gồm: người nộp thuế (Điều 4); đối tượng không chịu thuế (Điều 5); giá tính thuế (Điều 7); thuế suất (Điều 8); phương pháp khấu trừ thuế (Điều 10); phương pháp tính trực tiếp trên GTGT (Điều 11); khấu trừ thuế GTGT đầu vào (Điều 12); các trường hợp hoàn thuế (Điều 13); hóa đơn, chứng từ (Điều 14); hiệu lực thi hành (Điều 15); tổ chức thực hiện (Điều 16). Bổ sung 1 Điều quy định về thời điểm xác định thuế GTGT và 1 Điều quy định về các hành vi bị nghiêm cấm.
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc, đối với những nội dung sửa đổi, bổ sung, dự thảo Luật đã bám sát theo 5 nhóm chính sách tại hồ sơ lập đề nghị xây dựng dự án Luật thuế GTGT (sửa đổi) đã được UBTVQH đồng ý…
Bảo vệ nguồn thu và tránh việc đối xử bất lợi cho các nhà cung cấp trong nước
Thay mặt cơ quan thẩm tra dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách (TCNS) của Quốc hội Lê Quang Mạnh khẳng định, Ủy ban TCNS nhất trí về sự cần thiết sửa đổi Luật để giải quyết các bất cập trong thực tiễn cũng như hoàn thiện chính sách thu, phù hợp với mục tiêu đề ra trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 và Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Về các trường hợp không phải nộp thuế GTGT đầu ra nhưng được khấu trừ thuế GTGT đầu vào: Dự thảo Luật quy định cho phép không tính thuế đầu ra nhưng được khấu trừ thuế đầu vào đối với nông lâm thủy sản chưa chế biến. Hiện nay việc chuyển nhượng dự án đầu tư và một số trường hợp khác cũng đang được áp dụng cơ chế tương tự. Ủy ban TCNS đề nghị Cơ quan soạn thảo giải trình làm rõ luận cứ và cơ sở pháp lý của các quy định này.
Về mức doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT: Dự thảo Luật sửa đổi quy định mức doanh thu hàng năm từ 100 triệu đồng trở xuống thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT (theo quy định của Luật hiện hành) thành “dưới mức do Chính phủ quy định”. Ủy ban TCNS cho rằng, việc sửa đổi, điều chỉnh quy định về ngưỡng doanh thu hàng năm thuộc diện không chịu thuế GTGT là cần thiết để phù hợp với thực tế phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và cần được quy định cụ thể trong Luật để xác lập căn cứ pháp lý rõ ràng.
Về bổ sung quy định không thu thuế GTGT đối với một số loại hàng hóa nhập khẩu: Dự thảo Luật bổ sung quy định quà biếu, quà tặng, tài sản di chuyển, hàng biên mậu trong định mức miễn thuế nhập khẩu theo pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Mặc dù không được quy định trong Luật song trên thực tế, việc miễn thuế GTGT gắn với miễn thuế nhập khẩu hiện cũng được thực hiện đối với hàng hóa nhập khẩu có giá trị nhỏ dưới 1 triệu đồng gửi qua chuyển phát nhanh (theo Quyết định số 78/2010/QĐ-TTg).
Theo Ủy ban TCNS, với sự bùng nổ của thương mại điện tử xuyên biên giới, lượng giao dịch hàng hóa có giá trị nhỏ xuyên biên giới đã tăng gấp nhiều lần trong thời gian qua… Nhiều nước đã bỏ quy định miễn thuế GTGT đối với hàng hóa nhập khẩu có giá trị nhỏ để bảo vệ nguồn thu, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa hàng sản xuất trong nước và nhập khẩu.
Chủ nhiệm Ủy ban TCNS Lê Quang Mạnh đề nghị Chính phủ có chính sách phù hợp để mở rộng và bao quát các nguồn thu trong bối cảnh hạn chế về ngân sách hiện nay, giải trình cơ sở pháp lý của Quyết định số 78/2010/QĐ-TTg đối với nội dung nêu trên.
Về đối tượng áp dụng thuế suất 0%: Dự thảo Luật bổ sung “công trình xây dựng, lắp đặt ở nước ngoài, trong khu phi thuế quan” và “hàng hóa cung cấp cho khách hàng nước ngoài khác theo quy định của Chính phủ” là hàng hóa xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0%. Đa số ý kiến cho rằng, “công trình xây dựng, lắp đặt” khó có thể xem là “hàng hóa xuất khẩu”, ngoại trừ thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu sử dụng để xây dựng các công trình này khi được vận chuyển từ Việt Nam sang nước ngoài thì mặc nhiên đã là hàng hóa xuất khẩu được hưởng thuế suất 0%; các dịch vụ đi kèm được xử lý theo cơ chế của dịch vụ xuất khẩu.
Vì vậy, Ủy ban TCNS đề nghị bỏ nội dung này và giải trình cụ thể về “hàng hóa cung cấp cho khách hàng nước ngoài khác theo quy định của Chính phủ” để làm rõ về tính phù hợp, trong trường hợp cần thiết cần quy định rõ trong Luật, không giao Chính phủ quy định.
Về phương pháp tính thuế: Dự thảo Luật quy định đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp bao gồm “tổ chức nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, cá nhân ở nước ngoài là đối tượng không cư trú tại Việt Nam có doanh thu phát sinh tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ”.
Ủy ban TCNS đề nghị Chính phủ làm rõ định hướng về chính sách thu (bao gồm cả thuế GTGT, thuế TNDN) và chính sách quản lý thu đối với các nhà cung cấp nước ngoài vì nội dung dự thảo Luật là không phù hợp nếu được áp dụng cho các nhà cung cấp nước ngoài bán hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng Việt Nam qua các sàn thương mại điện tử và nền tảng số.
Quy định theo hướng này tạo ra sự bất bình đẳng cho các nhà cung cấp trong nước, làm mất nguồn thu ngân sách, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế về thuế GTGT đối với các giao dịch số và là phương pháp tính thuế không thích hợp để áp dụng đối với các trường hợp không phát sinh thuế GTGT đầu vào tại Việt Nam.
Chủ nhiệm Ủy ban TCNS Lê Quang Mạnh cho biết, Ủy ban đề nghị Chính phủ cân nhắc kinh nghiệm các nước để áp dụng mức thuế suất GTGT thông thường (10%) theo đúng nguyên tắc của Luật Thuế GTGT, không áp dụng phương pháp tính trực tiếp để bảo vệ nguồn thu và tránh việc đối xử bất lợi cho các nhà cung cấp trong nước...