Mực nước sông Mekong lên cao bất thường giữa mùa khô
Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia, tổng lượng dòng chảy từ thượng lưu về ĐBSCL trong thời gian gần đây đang có dấu hiệu tăng dần, cao hơn trung bình nhiều năm, dự báo trong tháng 4 cao hơn 15-20%, hai tháng tiếp cao hơn 20-30%
Mực nước tại nhiều khu vực có chỉ số cao hơn so với năm ngoái
Theo đó, hai yếu tố thượng lưu có ảnh hưởng quan trọng đến diễn biến nguồn nước, xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là lượng trữ trong Biển Hồ (Tonle Sap) và dòng chảy đến Kratie.
Cập nhật của Viện Khoa học thủy lợi miền Nam, ngày 21/4 vừa qua cho thấy, mực nước nhánh vào Biển Hồ ở cao trình 1,14m. Dung tích hồ hiện nay khoảng 2,02 tỷ m3, cao hơn dung tích trung bình nhiều năm, mùa khô 2015-2016, 2017-2018, 2019-2020 và 2020-2021 lần lượt là 0,23 tỷ m3, 0,82 tỷ m3, 0,16 tỷ m3, 0,64 tỷ m3 và 0,37 tỷ m3.
Tại trạm Kratie, tính đến 7h ngày 21/4, mực nước ở mức 7,96m, cao hơn mực nước trung bình nhiều năm, mùa khô 2015-2016, 2017-2018, 2019-2020 và 2020-2021 lần lượt là 1,6m, 0,53m, 1,09m và 0,42m.
Bên cạnh đó, theo Văn phòng thường trực Ủy ban sông Mekong, lượng nước về ĐBSCL qua hai trạm Tân Châu (sông Tiền) và Châu Đốc (sông Hậu) đã tăng 1.000 m3 mỗi giây lên 5.600 m3/s. Cụ thể, trong tháng 3/2022, tổng lượng dòng chảy qua hai trạm này đạt khoảng 12,3 tỷ m3, cao hơn cùng kỳ năm ngoái khoảng 30%.
Theo số liệu từ Đài khí tượng thủy văn Nam bộ, mực nước thực đo cao nhất ngày 21/4 tại trạm Tân Châu (sông Tiền) là 1,45 m, cao hơn cùng kỳ năm ngoái 0,4 m, cao hơn trung bình nhiều năm 0,5 m. Tương tự, trạm Châu Đốc (sông Hậu) là 1,65 m, cao hơn cùng kỳ 0,5 m và cao hơn trung bình nhiều năm 0,7 m.
Trong khi đó, trong tuần từ 14/4 - 21/4 lượng xả nước từ thủy điện Cảnh Hồng (Trung Quốc) xuống hạ lưu dao động trong khoảng từ 706 m3/s đến 2.286 m3/s. Hiện mực nước tại Cảnh Hồng ở mức 537,39m tương ứng với lưu lượng khoảng 2.286 m3/s. Các hồ chứa trên lưu vực sông Mekong còn dung tích điều tiết bình quân vào khoảng 41,5%, tương đương với tổng dung tích còn khoảng 27,2 tỷ m3.
Viện Khoa học thủy lợi miền Nam dự báo, dòng chảy trung bình về ĐBSCL từ tháng 4 đến cuối mùa khô ở mức cao hơn trung bình nhiều năm, do ảnh hưởng của xả nước gia tăng từ thủy điện Trung Quốc và hạ lưu vực Mekong. Điều này sẽ có tác động tích cực đến giảm xâm nhập mặn ở các tháng 4 và 5 nếu không có gì bất thường từ vận hành giảm xả nước ở các thủy điện.
Tiềm ẩn nhiều nguy cơ
ThS. Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái vùng ĐBSCL, cho biết, trong điều kiện thời tiết bình thường như năm 2021 các đập thủy điện thượng nguồn tích đủ nước sẽ xả để phát điện vào mùa khô năm sau. Trước mắt, lượng nước này giúp giảm hạn mặn cho các tỉnh miền Tây, song để lại những tác động tiêu cực, lâu dài.
Thứ nhất, việc xả lũ vào mùa khô sẽ khiến dòng chảy mùa lũ (vào tháng 7, 8, 9) yếu đi, khiến cát, phù sa vốn đã bị các đập chặn lại một lượng đáng kể nay càng ít về ĐBSCL.
Thiếu phù sa, thiếu cát sẽ gây sạt lở bờ sông, bờ biển ở ĐBSCL. Cát sẽ ngày càng khan hiếm và giá tăng cao, không đáp ứng được nhu cầu xây dựng; trong khi sạt lở làm mất nhà cửa, đe dọa tính mạng người dân. Về lâu dài, sạt lở đe dọa chính sự tồn tại của ĐBSCL.
Thứ hai, việc tích nước vào mùa lũ của các đập thủy điện làm biến mất mùa lũ. Từ đó đất đai bạc màu, mất nguồn thủy sản tự nhiên vào mùa nước nổi.
Thứ ba, thủy điện xả nước từng đợt trong mùa khô khiến mực nước biến động bất thường, tạo ra những tín hiệu giả của dòng sông, làm cho hệ sinh thái rối loạn. Chẳng hạn, giữa mùa khô nước dâng lên bất thường sẽ khiến cá, tôm tưởng mùa nước đã tới nên bơi ngược dòng để sinh sản; khi mùa nước thật đến thì chúng không sinh sản được nữa.
Thứ tư, việc xả nước giúp đẩy hạn, mặn cho ĐBSCL nhưng bất thường, không ổn định.
Ông Thiện cho biết thêm, thủy điện tác động nặng nề nhất là vào những năm có El Nino cực đoan như năm 2016, năm 2020. Khi đó, nước bị các đập lần lượt giữ lại, hạn mặn ở miền Tây sẽ càng khốc liệt hơn. Ngược lại, hiện tượng La Nina cực đoan cũng có thể sẽ xảy ra. Lúc đó hạ nguồn đang lũ cộng thêm thượng nguồn xả nước, dẫn đến "lũ chồng lũ".
“Nếu chỉ thấy tác dụng làm giảm hạn, mặn trong mùa khô năm nay thì người ta dễ lầm tưởng thủy điện có tác dụng tốt cho đồng bằng, trong khi thực tế về lâu dài tác hại rất nghiêm trọng, nên cần nhìn bức tranh cho đầy đủ”, ông Thiện phân tích.