Mặc dù Mỹ công khai tuyên bố chuyển cho Ukraine 2 tổ hợp với 24 bệ phóng tên lửa phòng không NASAMS, tuy nhiên trang Aiva của Nga cho biết rằng, thực tế Washington đã chuyển cho Kiev tới 3 tổ hợp với 36 bệ phóng.
Với 36 bệ phóng chứa 216 tên lửa trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu, tổ hợp phòng không NASAMS có thể đẩy lùi một cuộc tấn công đường không lớn của đối phương.
Việc triển khai đồng thời 3 khẩu đội hệ thống tên lửa phòng không NASAMS có thể nâng cao đáng kể khả năng phòng không của Ukraine.
Đồng thời, vào tháng 8, quân đội Ukraine có thể nhận được thêm hệ thống tên lửa phòng không IRIS-T của Đức.
Như vậy khả năng phòng thủ trên không của Kiev sẽ tăng lên rất mạnh và có thể đe dọa nghiêm trọng năng lực tác chiến đường không của Nga tại chiến trường Ukraine.
NASAMS là một trong những dự án vũ khí thành công nhất trong lịch sử Na Uy, cũng là tổ hợp phòng không cố định duy nhất được Mỹ đặt niềm tin và triển khai để bảo vệ không phận thủ đô Washington.
Hệ thống được phát triển bởi tập đoàn Kongsberg Defence & Aerospace của Na Uy và Raytheon Mỹ, bắt đầu đưa vào biên chế từ năm 1998 và đang phục vụ trong quân đội 9 nước.
Quá trình phát triển NASAMS bắt nguồn từ chương trình nghiên cứu "Hawk Study" được Na Uy tiến hành trong thập niên 1990, nhằm so sánh hiệu quả hệ thống phòng không Roland II của Đức với tổ hợp MIM-23 Hawk do Mỹ chế tạo.
Nghiên cứu này sử dụng máy tính để mô phỏng loạt nhiệm vụ phòng không với nhiều kịch bản khác nhau.
Nghiên cứu cho thấy mỗi hệ thống của Đức và Mỹ phù hợp với nhiệm vụ bảo vệ một số khu vực nhất định, trong đó tổ hợp MIM-23 nâng cấp thể hiện sức mạnh ở các vùng được ưu tiên phòng thủ.
Dựa trên kết quả từ Hawk Study, Oslo bắt đầu xây dựng mạng lưới chỉ huy kết hợp tên lửa phòng không MIM-23, sau đó được đặt tên "Hệ thống Hawk tối tân của Na Uy" (NOAH).
Hệ thống này được đưa vào biên chế trong thập niên 1980, nhưng do các hệ thống MIM-23 quá đắt đỏ, Na Uy vẫn phải dựa vào lá chắn Hercules đời cũ để bảo vệ lãnh thổ phía tây.
Thiết kế module của NOAH cho phép nó tích hợp thêm tên lửa đối không tầm trung AIM-120 AMRAAM, vốn được trang bị cho các tiêm kích thế hệ 4 của Mỹ và đồng minh.
Nhận thấy tên lửa này có thể biến thành vũ khí phòng không phóng từ mặt đất, Na Uy sau đó ra mắt hệ thống NASAMS, sử dụng thiết kế của NOAH với đạn tên lửa AMRAAM.
NASAMS có tầm bắn khoảng 25-30 km với độ chính xác rất cao. Tổ hợp này cũng có thể khai hỏa mọi mẫu tên lửa được dùng trên chiến đấu cơ NATO.
Giới chuyên gia phương Tây cho rằng NASAMS là bước tiến đáng kể so với những loại tên lửa phòng không vác vai được phương Tây viện trợ cho Ukraine trong 4 tháng qua.
NASAMS cũng hiện đại hơn nhiều so với các hệ thống phòng không tầm trung và tầm ngắn của Kiev, được coi là sự bổ sung đáng kể trong bối cảnh Ukraine đã mất ít nhất 25 bệ phóng tên lửa S-300 và nhiều tổ hợp phòng không tầm trung Buk-M1 mà không có lựa chọn thay thế.
Hệ thống NASAMS được thiết kế để đánh chặn tên lửa hành trình bay thấp, một trong những mối đe dọa lớn nhất với thủ đô của Ukraine hiện nay.
Sự xuất hiện của NASAMS có thể giúp Ukraine đối phó tốt hơn với đòn không kích tên lửa, nhất là khi các tiêm kích nước này gặp nhiều khó khăn trong nỗ lực đánh chặn tên lửa Nga.
"Diện tích phản xạ radar cực nhỏ, khả năng bay bám địa hình và năng lực chế áp điện tử của tên lửa hành trình đối phương khiến radar lạc hậu của tiêm kích MiG-29 không thể phát hiện được. Tôi nghĩ các hệ thống phòng không mặt đất sẽ hiệu quả hơn", một phi công Ukraine có biệt danh Juice nói.
NASAMS có thể triển khai phân tán nhờ Trung tâm Điều phối Hỏa lực (FDC) do Na Uy phát triển, trong đó radar và các khẩu đội chiến đấu được kết nối qua đường truyền dữ liệu chuẩn NATO.
Một cụm FDC có thể kiểm soát cùng lúc 9 bệ phóng với 54 đạn tên lửa sẵn sàng khai hỏa. Hệ thống vẫn hoạt động bình thường ngay cả khi một số trận địa bị phá hủy hoặc ngừng hoạt động, giúp tăng khả năng sống sót trước những đòn chế áp phòng không bằng tên lửa diệt radar của Nga.
Phiên bản NASAMS 2 được trang bị cụm cảm biến quang điện tử, có thể cho phép phát hiện mục tiêu và khai hỏa tên lửa mà không đánh động cảm biến chống radar của đối phương.
Mỗi quả đạn AMRAAM đều có đầu dò radar chủ động, giúp bám bắt mục tiêu ngay cả khi nằm ngoài tầm quan sát của radar dẫn bắn.
Dù vậy, cụm cảm biến quang điện tử chủ yếu chỉ dùng để nhận diện mục tiêu và xác nhận tên lửa có bắn trúng hay không.
Biến thể NASAMS 3 được trang bị tên lửa tăng tầm AMRAAM-ER, trong đó sử dụng radar và đầu đạn AIM-120C-7 cùng động cơ tên lửa RIM-162 ESSM.
NASAMS 3 cũng có thể khai hỏa đạn đối không tầm ngắn AIM-9X Sidewinder trang bị đầu dò ảnh nhiệt chuyên đối phó tên lửa hành trình.
Giới chuyên gia phương Tây cho rằng phiên bản NASAMS nguyên gốc có thể là phương án khả thi nhất đối với Ukraine, do chúng ít phức tạp và không gặp nhiều rào cản trong xuất khẩu công nghệ.
Việt Hùng