Nâng cao chất lượng kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách địa phương
Thực hiện Luật Kiểm toán nhà nước (KTNN), Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030 và đáp ứng yêu cầu của cơ quan dân cử, KTNN đã và đang tăng cường triển khai kiểm toán báo cáo quyết toán (BCQT) ngân sách, trong đó có ngân sách địa phương (NSĐP). Kết quả kiểm toán BCQT NSĐP là căn cứ quan trọng để Hội đồng nhân dân (HĐND) cấp tỉnh xem xét, phê chuẩn BCQT NSĐP, đồng thời cũng là cơ sở để KTNN đưa ra ý kiến xác nhận đối với BCQT ngân sách nhà nước của Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn. Với ý nghĩa đó cũng như yêu cầu ngày càng cao về chất lượng kiểm toán, đòi hỏi mỗi đơn vị nỗ lực hơn nữa trong tổ chức triển khai kiểm toán nội dung này.
Bài 1: Phát hiện nhiều bất cập

KTNN tổ chức kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách địa phương tại tỉnh Nghệ An. Ảnh: TL
Thu - chi ngân sách còn nhiều kẽ hở
Năm 2024, KTNN đã thực hiện kiểm toán BCQT ngân sách của 57 địa phương, đạt tỷ lệ 90% số đầu mối và phù hợp với lộ trình thực hiện mục tiêu Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030. Thông qua kiểm toán, KTNN đã chỉ ra nhiều vấn đề nổi cộm như: Một số địa phương giao dự toán chậm so với quy định; giao dự toán chi cao hơn dự toán thu nhưng không điều chỉnh dự toán kịp thời dẫn đến mất cân đối ngân sách; điều chỉnh dự toán chưa đảm bảo thời gian theo quy định. Nhiều địa phương chưa phân bổ và giao dự toán hết cho đơn vị ngay từ đầu năm; giao dự toán không có trong tiêu chí, định mức phân bổ dự toán hoặc vượt định mức chi thường xuyên của HĐND tỉnh…
Theo KTNN khu vực VI, hằng năm đơn vị thực hiện kiểm toán NSĐP và BCQT NSĐP của 5 tỉnh, thành phố khu vực Đông Bắc. Kết quả kiểm toán đã phát hiện những hạn chế, bất cập trong quản lý, điều hành ngân sách như công tác lập, giao dự toán thu chi; việc quản lý, cấp phát kinh phí bổ sung có mục tiêu; việc cho phép kéo dài kế hoạch vốn đầu tư công sang năm sau; công tác xử lý số dư tạm ứng, tổng hợp quyết toán ngân sách. Ngoài ra, kết quả kiểm toán còn chỉ ra những bất cập của cơ chế, chính sách liên quan đến các quy định về đảm bảo điều kiện kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công hằng năm theo quy định của Luật Đầu tư công; các văn bản quản lý, điều hành NSĐP…
KTNN không chỉ xác nhận tính đúng đắn, trung thực của BCQT NSĐP, mà còn đánh giá việc tuân thủ pháp luật, tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của các đơn vị được kiểm toán. Đồng thời, phát hiện kịp thời hành vi tham nhũng, lãng phí nhằm bảo đảm các nguồn lực tài chính công, tài sản công được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả.
Tương tự, KTNN khu vực IX cho biết, kết quả kiểm toán BCQT NSĐP đã chỉ ra nhiều tồn tại, hạn chế trong công tác khóa sổ kế toán, quyết toán thu ngân sách, chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên và điều hành ngân sách của chính quyền địa phương. Mỗi năm, KTNN khu vực IX đã phát hiện và kiến nghị chấn chỉnh kịp thời đối với những hạn chế, bất cập và tư vấn hướng tháo gỡ vướng mắc trong công tác quản lý, điều hành, sử dụng tài chính công của các đơn vị được kiểm toán, kiến nghị tăng thu, giảm chi NSNN hàng trăm tỷ đồng; kiến nghị hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện và ban hành mới nhiều văn bản pháp luật không phù hợp. Đồng thời, KTNN khu vực IX đã đưa ra những ý kiến xác nhận tính trung thực, hợp lý của BCQT NSĐP làm cơ sở để HĐND tỉnh xem xét, phê chuẩn quyết toán ngân sách.
Theo Kế hoạch kiểm toán năm 2025 đã được Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành ngày 11/12/2024, KTNN sẽ thực hiện kiểm toán BCQT NSĐP tại 35 tỉnh/thành phố; kiểm toán NSĐP tại 4 tỉnh/thành phố; kiểm toán NSĐP và BCQT NSĐP tại 22 tỉnh/thành phố. Với phương châm “An toàn - Uy tín”, “gọn nhưng chất lượng”, KTNN tiếp tục đẩy mạnh kiểm toán tổng hợp nhằm đánh giá sâu sắc, toàn diện công tác quản lý, điều hành thu, chi NSNN, công tác quản lý, sử dụng tài sản công của từng cấp, từng đơn vị, cũng như tập trung đánh giá tính hiệu lực của cơ chế, chính sách có liên quan để kiến nghị hoàn thiện, khắc phục lỗ hổng cơ chế, chính sách. Đồng thời, tập trung kiểm toán các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; phát huy vai trò là công cụ hữu hiệu của Đảng, Nhà nước trong kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Chậm trễ trong việc xác nhận số liệu
Thực tiễn triển khai các cuộc kiểm toán thời gian qua cho thấy, hệ thống pháp luật về quản lý NSĐP còn chồng chéo, chưa đồng bộ, nhiều quy định, hướng dẫn của Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành không đúng quy định của Luật NSNN, Bộ Tài chính và Chính phủ, đặc biệt, công tác xác nhận số liệu BCQT NSĐP chậm trễ gây khó khăn cho công tác kiểm toán. Qua thực tế tại các địa phương KTNN khu vực IX thực hiện kiểm toán cho thấy, công tác cung cấp thông tin, số liệu, hồ sơ của một số địa phương chưa kịp thời. Một số tỉnh chưa tuân thủ thời gian lập, gửi báo cáo quyết toán NSĐP hằng năm theo quy định tại khoản 2 Điều 70 Luật NSNN (gửi trước ngày 01/10 năm sau).
Một số cơ quan tổng hợp của địa phương chưa quan tâm đúng mức đến việc phối hợp thực hiện nhiệm vụ kiểm toán BCQT NSĐP, cử nhân sự không nắm bắt chuyên môn liên quan đến nội dung kiểm toán để phối hợp cung cấp thông tin, số liệu, hồ sơ tài liệu và trao đổi, làm việc. Thời gian để đơn vị giải trình, làm rõ nội dung thông tin, số liệu thường kéo dài, do liên quan đến thông tin, số liệu tổng hợp từ 3 cấp ngân sách tỉnh, huyện, xã và liên quan giữa các cơ quan Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Kho bạc nhà nước tỉnh nên công tác giải trình, làm rõ số liệu cần nhiều thời gian.
Tương tự như trên, thực tế triển khai kiểm toán của KTNN khu vực II cũng cho thấy, việc quản lý NSĐP còn thiếu minh bạch, che giấu thông tin, báo cáo không trung thực. Dữ liệu kế toán ngân sách chưa chuẩn hóa, thiếu tính thống nhất giữa các cấp chính quyền, gây khó khăn trong việc tổng hợp và so sánh số liệu. Trong theo dõi quyết toán thu ngân sách của các địa phương, một số trường hợp đến tháng 11, 12 của năm kiểm toán, Bộ Tài chính và các địa phương vẫn điều chỉnh số thu bổ sung cho các địa phương, chậm thẩm định một số chế độ chính sách làm cơ sở cho các khoản bổ sung có mục tiêu, gâykhó khăn cho KTNN trong việc tổng hợp nhu cầu kinh phí các chế độ chính sách, hoặc xác nhận số liệu kiểm toán.
Còn theo KTNN khu vực V, một số địa phương lập BCQT chậm, thiếu mẫu biểu; gửi BCQT cho cơ quan tài chính cấp trên khi chưa hoàn thành công tác khóa sổ; thẩm định khi BCQT chưa được HĐND cùng cấp phê chuẩn. Do thời gian lập BCQT của các đơn vị chậm dẫn đến công tác kiểm toán bị kéo dài hoặc kết thúc thời gian kiểm toán nhưng đơn vị chưa có BCQT chính thức. Kết quả là, thời điểm phát hành báo cáo kiểm toán gửi địa phương không kịp thời điểm HĐND cấp tỉnh họp xem xét, phê chuẩn quyết toán NSĐP nên chưa phát huy được giá trị của báo cáo kiểm toán theo quy định của Luật NSNN và Luật KTNN./.