Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ
Sở Khoa học và Công nghệ (KHCN) Hà Nội đã tiếp thu các ý kiến góp ý về dự thảo Quyết định của UBND TP về việc ban hành Quy chế quản lý nhiệm vụ KHCN của Thủ đô.
Luật Thủ đô 2024:

Hoạt động sản xuất tại Khu công nghệ cao Láng Hòa Lạc, Hà Nội. Ảnh: Phạm Hùng
Thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ
Theo thông báo, Sở KHCN đã nhận 104 ý kiến của các cơ quan Đảng; các sở, ban, ngành, TP; UBND các xã, phường; các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn TP. Sở KHCN đã tổng hợp các ý kiến đóng góp, tiếp thu, sửa đổi, bổ sung dự thảo Quyết định của UBND TP ban hành Quy chế quản lý nhiệm vụ KHCN của Thủ đô (thực hiện khoản 1 Điều 23 Luật Thủ đô 2024).
Sở KHCN đã tiếp thu, rà soát, điều chỉnh, cập nhật các quy định quản lý nhiệm vụ KHCN phù hợp quy định liên quan tại Nghị quyết số 34/2025/NQ-HĐND theo góp ý của Sở Tư pháp Hà Nội như về cơ chế đặt hàng nhiệm vụ khoa học công nghệ trọng điểm được áp dụng theo cơ chế đặt hàng nhiệm vụ KHCN TP. Cơ chế hỗ trợ mua sắm, vận hành máy móc, thiết bị thực hiện nhiệm vụ KHCN trọng điểm theo Nghị quyết số 34/2025/NQ-HĐND,… Bổ sung thêm nhiệm vụ KHCN theo hình thức liên kết, hợp tác công tư.
Việc quản lý rủi ro được thể hiện tại điểm b khoản 1 Điều 13, điểm d khoản 2 Điều 15, khoản 1 Điều 19 quy chế. Về ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý, đánh giá, báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KHCN: quy chế đã quy định về việc nộp hồ sơ, cập nhật thông tin thông qua cổng dịch vụ công trực tuyến/Nền tảng số quản lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia, cho phép họp theo phương thức trực tuyến. Cùng với đó, Sở KHCN cũng tiếp thu, sửa đổi một số Điều trong quy chế theo góp ý của Sở Tài chính như về nhiệm vụ của tổ thẩm định tài chính, hệ số k,…
Quy chế quản lý nhiệm vụ KHCN của Thủ đô được ban hành nhằm tiếp tục cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là các chủ trương mới, các quy định pháp luật mới liên quan đến phát triển KHCN quy định tại Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Luật Thủ đô 2024, Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo số 93/2025/QH15 và các văn bản hướng dẫn, phù hợp với vị trí, vai trò, điều kiện thực tế của Thủ đô Hà Nội.
Quy chế góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động KHCN của TP, tăng cường hỗ trợ DN cải tiến công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm thông qua hình thức hỗ trợ triển khai các nhiệm vụ KHCN, thúc đẩy ứng dụng KHCN vào đời sống, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số đến năm 2030. Phân cấp, ủy quyền quản lý nhiệm vụ KHCN, bổ sung nhiệm vụ KHCN sử dụng ngân sách cấp xã phù hợp với Luật Ngân sách Nhà nước số 89/2025/QH15 (trước đây, ngân sách Nhà nước cấp xã không được chi cho hoạt động nghiên cứu khoa học); bổ sung quy trình quản lý phù hợp với từng loại hình nhiệm vụ KHCN (đặt hàng, tài trợ), bổ sung quy trình quản lý nhiệm vụ KHCN cơ sở phù hợp quy định tại Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo số 93/2025/QH15, góp phần tạo hành lang pháp lý thông thoáng, góp phần thúc đẩy phát triển KHCN trên địa bàn TP.
Tính khả thi về nội dung, phương pháp thực hiện
Dự thảo Quy chế quản lý nhiệm vụ KHCN của Thủ đô gồm 9 chương, 60 Điều. Trong đó, chương I quy định phạm vi, đối tượng áp dụng và giải thích từ ngữ. Chương II về quản lý nhiệm vụ KHCN TP, trong đó, quy định chung về nhiệm vụ KHCN TP; kế hoạch đặt hàng, tài trợ nhiệm vụ KHCN TP; xét tài trợ, đặt hàng nhiệm vụ KHCN TP; đánh giá trong kỳ, cấp tiếp kinh phí, điều chỉnh hợp đồng giao nhiệm vụ và chấm dứt thực hiện nhiệ vụ KHCN TP; đánh giá cuối kỳ, đánh giá hiệu quả đầu ra của nhiệm vụ KHCN TP; quyết định chấm dứt thực hiện nhiệm vụ và thanh lý hợp đồng giao nhiệm vụ KHCN TP; đánh giá tác động của kết quả thực hiện nhiệm vụ KHCN TP. Chương III về công nhận nhiệm vụ KHCN trọng điểm đối với nhiệm vụ KHCN không sử dụng ngân sách TP. Chương IV về quản lý nhiệm vụ KHCN xã, phường. Chương V về quản lý nhiệm vụ KHCN cơ sở,…
Tiêu chí đối với nhiệm vụ KHCN TP gồm: có mục tiêu rõ ràng, có tính khả thi về nội dung, phương pháp thực hiện, kế hoạch triển khai, kết quả dự kiến, kinh phí và thời gian thực hiện; phù hợp với định hướng ưu tiên và yêu cầu nêu trong thông báo đặt hàng nhiệm vụ KHCN TP; không trùng lặp với các nhiệm vụ KHCN sử dụng ngân sách Nhà nước đã và đang triển khai. Đối với nhiệm vụ kế tiếp hướng nghiên cứu đã có, mô hình ứng dụng cần nhân rộng, nêu rõ: kết quả đạt được ở giai đoạn trước; những vấn đề tồn tại cần tiếp tục giải quyết. Tiêu chí đối với nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản: đáp ứng các quy định tại khoản 1 Điều này; có tính mới, tính sáng tạo, có khả năng tạo ra tri thức khoa học mới, góp phần nâng cao năng lực KHCN quốc gia; áp dụng phương pháp nghiên cứu tiên tiến; có kết quả công bố trên các ấn phẩm trong nước và quốc tế.
Tiêu chí đối với nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng: đáp ứng các quy định tại khoản 1 Điều này; có tính mới, tính sáng tạo, ý nghĩa khoa học, có khả năng ứng dụng kết quả nghiên cứu tạo ra giải pháp phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh, xây dựng chính sách, có ý nghĩa thực tiễn và tác động đối với phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tiêu chí đối với nhiệm vụ phát triển công nghệ: đáp ứng các quy định tại khoản 1 Điều này; góp phần tạo ra công nghệ có tính mới, tính sáng tạo, phù hợp với xu thế công nghệ trong nước và quốc tế, có khả năng ứng dụng sản xuất thử sản phẩm mới trong điều kiện sản xuất thực tế nhằm kiểm soát chất lượng, chi phí và khả năng thương mại hóa trước khi triển khai sản xuất thương mại; có DN, cơ quan, tổ chức cam kết tiếp nhận, ứng dụng, thương mại hóa kết quả hoặc tham gia thực hiện nhiệm vụ; có khả năng huy động kinh phí ngoài ngân sách để thực hiện.
Tiêu chí đối với nhiệm vụ phát triển giải pháp xã hội: đáp ứng các quy định tại khoản 1 Điều này; xuất phát từ nhu cầu giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở địa phương, vùng, quốc gia, hoặc phục vụ phát triển ngành, lĩnh vực; kết quả đóng góp về lý luận, học thuật; góp phần đề xuất các giải pháp, chính sách, pháp luật, mô hình, quy trình, phương thức tổ chức, quản lý có tính đột phá, đổi mới và khả năng ứng dụng cao; có tổ chức tiếp nhận, ứng dụng.
Tiêu chí đối với nhiệm vụ KHCN trọng điểm: đáp ứng tiêu chí chung tại khoản 1; tiêu chí tại khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản 5 Điều này phù hợp với loại hình nhiệm vụ cụ thể; có ít nhất 2 sản phẩm thuộc loại hình sau, phù hợp loại hình nhiệm vụ: bài báo quốc tế đăng trên tạp chí thuộc nhóm Q1 hoặc tại hội thảo quốc tế xếp hạng A trở lên; bằng độc quyền sáng chế hoặc bằng bảo hộ giống cây trồng được cấp (trong nước hoặc quốc tế) đối với nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ; chính sách cụ thể, khả thi hoặc giải pháp tổ chức thực thi pháp luật mới, có tính tiên phong trong giải quyết các vấn đề mang tính đặc thù của TP, phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của Thủ đô, được cơ quan quản lý Nhà nước cấp TP hoặc T.Ư chấp nhận áp dụng thử nghiệm, kết quả thử nghiệm chính sách, giải pháp phải thể hiện hiệu quả cải thiện đáng kể so với thời điểm trước khi thử nghiệm chính sách, giải pháp đối với nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng, phát triển giải pháp xã hội.
Để phát triển đồng bộ các lĩnh vực KHCN, Luật Thủ đô 2024 ưu tiên nguồn lực đầu tư xây dựng Thủ đô trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ hàng đầu của cả nước và khu vực; có nhiều cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện cho KHCN phát triển. Luật đã có cơ chế ưu đãi để các tổ chức KHCN, đặc biệt để đội ngũ trí thức của Thủ đô có điều kiện phát triển, cống hiến cho Thủ đô và cho đất nước.
Đại biểu Quốc hội Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.












