'Ngậm cười chín suối'

Rõ ràng, một khi đã ngậm/ ngậm miệng thì người ta không thể cười...

Trước khi bán mình chuộc cha, Thúy Kiều dặn dò, mong mỏi Thúy Vân thay mình mà chắp nối tơ duyên với Kim Trọng. Nếu được thế: "Chị dù thịt nát xương mòn/ Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây" ("Truyện Kiều").

Trong tiếng Việt, ta thấy có nhiều cụm từ liên quan đến từ "ngậm" như "Lúng búng như ngậm hột thị", "Ngậm miệng nín tiếng", "Ngậm đắng nuốt cay", "Ngậm miệng ăn tiền", "Ngậm ngải tìm trầm", "Ngậm máu phun người", "Ngậm bồ hòn làm ngọt"… Theo "Đại từ điển tiếng Việt" (1999): "Ngậm: 1. Mím môi lại để cho miệng ở trạng thái khép kín, trái với há: ngậm chặt miệng; 2. Giữ ở miệng hoặc trong miệng: ngậm thuốc, mồm ngậm kẹo; 3. Nén chịu đựng: ngậm oan, ngậm đắng ra về".

Rõ ràng, một khi đã ngậm/ ngậm miệng thì người ta không thể cười.

Thế nào là cười? Trước mắt, ta hãy lấy định nghĩa ngắn gọn của "Việt Nam tự điển" (1931) do Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo: "Nhách môi, há miệng lộ sự vui vẻ hay ý tứ gì ra". Trước đó nữa, "Đại Nam quấc âm tự vị" (1895) giải thích: "Ấy là cách hả miệng, nhếch mép, hoặc có tiếng hoặc không có tiếng, tỏ ra mình vui vẻ hay có ý gì. Cũng có nghĩa là chê bai: Nó cười tôi".

Qua đó, ta thấy khi cười thì ít ra hai môi phải cử động, chứ ngậm miệng lại thì làm sao gọi là cười? Người ta thường nói: "Há miệng cười", chứ không thể có động tác: "Ngậm miệng cười", thế nhưng lại có từ "ngậm cười", ta có thể hiểu nôm na là ngậm lấy tiếng/ nụ cười? Có phải vậy không? Hơn nữa, cơn cớ ra làm sao mà phải ngậm/ ngậm cười?

Nhà văn Nguyễn Công Hoan có viết truyện ngắn "Ngậm cười" (1938), chuyện rằng có anh chàng dân đen được quan trên cử đi trừ bọn cướp. Với lòng quả cảm, nghĩa hiệp anh ta đã khám phá ra ổ trộm, nhờ đó, làng xóm bình yên. Sự thành công này rực rỡ đến độ cô vợ anh… phải góa chồng. Tất nhiên, quan lớn hứa thưởng công, đền bù công lao xứng đáng của một người bỏ mạng vì việc làng, việc nước. Cũng an ủi phần nào, vì sau khi chồng chết, gia đình ngày càng túng quẫn, kiệt quệ.

Chờ đợi mãi, dăm ba tháng sau, mừng quá, chị nhận tờ sức của ông lý trưởng. Mời đi nhận tiền thưởng? Không, mời nhận cái bằng… truy tặng cửu phẩm bá hộ! "Bỗng chị Cu Bản xám mặt lại, chị run bắn lên, rồi mếu máo khóc. Chị giật lấy tờ giấy, chạy ù ra cổng, quên đứt rằng đáng lẽ chị phải vui vẻ cho chồng chị ở chín suối được ngậm cười".

Qua hai dẫn chứng này, ta đều thấy có từ "chín suối", chi tiết này cho biết một khi dùng từ "ngậm cười" là dành cho người đã mất, đã khuất. Chín suối còn gọi cửu tuyền, tuyền đài, là chỉ cõi âm phủ. Theo học giả Đào Duy Anh, "Ngậm cười chín suối" là do từ chữ Hán có câu "Hàm tiếu nhập địa", tức là ngậm cười mà xuống đất, tức là vui lòng mà chết".

Từ giải thích này, ta hiểu rằng "ngậm" ở đây không liên quan gì đến động tác ngậm/ ngậm miệng mà cần hiểu theo nghĩa bóng: "Đành lòng, cam chịu một cách vui vẻ", theo "Việt Nam tự điển" (1970); và cười trong ngữ cảnh này cũng không phải tiếng/ nụ cười mà hàm nghĩa biểu trưng cho sự hài lòng nào đó. Có thể nói "ngậm cười" là một trong những từ phản ánh nhân sinh quan "sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn" của người Việt, dẫu họ đã mất đi nhưng người còn sống vẫn quan tâm tưởng nhớ đến (như giỗ quảy); hoặc thực hiện việc gì đó không ngoài mục đích để người đã mất được "ngậm cười" nơi chín suối.

Lê Minh Quốc

Nguồn NLĐ: https://nld.com.vn/ngam-cuoi-chin-suoi-196251018203854873.htm