Ngân hàng dưới những áp lực tăng vốn mới

Đẩy mạnh tăng cường huy động vốn trên nhiều thị trường khác nhau, ngân hàng vẫn đối mặt thách thức cân bằng con số tăng trưởng ngắn hạn với các tỷ lệ an toàn trong trung và dài hạn.

Ngân hàng đẩy mạnh huy động vốn qua nhiều kênh kể từ đầu năm đến nay. Ảnh: LÊ VŨ

Ngân hàng đẩy mạnh huy động vốn qua nhiều kênh kể từ đầu năm đến nay. Ảnh: LÊ VŨ

Áp lực từ thị trường cùng quy định mới

Năm 2025 đánh dấu mốc lịch sử mới cho ngành ngân hàng Việt Nam khi quy định về các tỷ lệ an toàn vốn được nâng lên tầm cao mới với Thông tư 14, thay thế hoàn toàn Thông tư 41/2016 và có lộ trình 4 năm.

Ở thời điểm Thông tư bắt đầu có hiệu lực, một ngân hàng công bố đi theo phương pháp xếp hạng nội bộ (IRB), khó hơn phương pháp tiêu chuẩn (SA) vì yêu cầu mức độ chi tiết dữ liệu tương đương chuẩn IFRS (chuẩn mực báo cáo kế toán quốc tế), đòi hỏi ngân hàng phải có nền tảng hệ thống, mô hình phân tích, hạ tầng công nghệ.

Theo ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối phân tích Công ty chứng khoán Maybank, so sánh với hai Thông tư trước đó, quy định mới sẽ nghiêm ngặt hơn về tổng yêu cầu vốn (tức là CAR tổng thể cao hơn, cách tính rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường khắt khe hơn) cũng như yêu cầu về vốn cấp 1.

Như KTSG Online đề cập, sự thay đổi về mặt quy định trong thời gian tới có thể ảnh hưởng đến thị trường vốn. Các ngân hàng buộc phải tính toán lại kế hoạch huy động vốn ở tất cả thị trường.

Trong báo cáo mới đây của Công ty chứng khoán Rồng Việt (VDSC), tính đến thời điểm gần nhất vẫn có khoảng 8 ngân hàng đang có tỷ lệ an toàn vốn ở mức thấp trong hệ thống và chưa đạt tỷ lệ tối thiểu theo lộ trình bốn năm của Thông tư 14. Các ngân hàng này sẽ buộc phải hành động.

Để cải thiện, điểm đầu tiên các nhà băng có thể làm để tăng tỷ lệ an toàn, là tối ưu hóa hệ số rủi ro của danh mục tài sản có rủi ro (RWA) hoặc sớm hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Điều này đòi hỏi sự đầu tư lớn vào hệ thống quản trị rủi ro và dữ liệu.

Các nhà băng cũng sẽ phải củng cố vốn tự có thông qua các đợt phát hành cổ phiếu hoặc tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh để gia tăng lợi nhuận giữ lại. Ngoài ra, tổ chức tín dụng cũng phát hành trái phiếu thứ cấp để tăng vốn cấp 2 củng cố tỷ lệ CAR.

“Điều này có thể khởi động cuộc đua tăng vốn qua phát hành cổ phiếu của các ngân hàng hoặc tăng trưởng tích cực hơn về lợi nhuận”, báo cáo VDSC đánh giá.

Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng chịu áp lực huy động vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng đang tiếp tục tăng trưởng cao. Theo đánh giá của S&I Ratings, đơn vị xếp hạng tín nhiệm, các ngân hàng sẽ cần huy động vốn cấp 2 thông qua phát hành trái phiếu và duy trì vốn bằng cách ưu tiên chia cổ tức bằng cổ phiếu thay vì tiền mặt.

Áp lực này cũng chưa chấm dứt trong trung và dài hạn, khi nhu cầu đầu tư ở kỳ hạn dài ngày càng lớn, lại đi cùng với các quy định an toàn mới hướng đến chuẩn quốc tế Basel III.

Ngân hàng đẩy mạnh tăng vốn

Thực tế trong thời gian qua, nhiều nhà băng đã tăng cường phát hành tăng vốn cổ phần hoặc phát hành trái phiếu. Thị trường chứng khoán thuận lợi hơn cũng góp phần giúp các định chế tài chính tự tin đẩy nhanh kế hoạch gọi vốn. Tuy nhiên, tình hình kinh doanh tạo ra lợi nhuận cũng gặp khó khăn, tỷ suất lợi nhuận giảm với chi phí vốn có xu hướng tăng sẽ là những rào cản.

Theo S&I Ratings, tỷ lệ vốn chủ sở hữu hữu hình trên tổng tài sản (TCE/TA) ở nhóm ngân hàng quốc doanh và nhóm ngân hàng có quy mô nhỏ không biến động nhiều so với quí trước. Đối với các ngân hàng lớn và vừa, chỉ số này giảm nhẹ 0,5-1% trong quí 2, chủ yếu do hoạt động chi trả cổ tức tiền mặt như ACB, SHB, VPB, LPB, TPB và VIB.

Còn theo báo cáo của VIS Ratings, đơn vị xếp hạng tín nhiệm, xu hướng phát hành trái phiếu cũng tăng mạnh và trở thành kênh bổ sung nguồn vốn quan trọng cho các nhà băng.

Theo báo cáo tài chính hợp nhất, trong 6 tháng đầu năm, tổng lượng phát hành trái phiếu ngân hàng đạt 193.000 tỉ đồng, tăng gấp hai lần so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, quy mô phát hành lớn thuộc về nhóm các ngân hàng quốc doanh và ngân hàng tư nhân quy mô lớn như TCB, ACB, VPB, BIDV, MBB.

Thống kê cũng cho thấy đa phần các ngân hàng đã huy động từ kênh trái phiếu với mức lãi suất dao động từ 4,95-7,65%, cao hơn một chút so với mặt bằng lãi suất huy động tiền gửi kỳ hạn 12 tháng (4,8-6%). Điều này đã góp phần làm gia tăng chi phi vốn toàn ngành (tăng 25 điểm so với cùng kỳ trong quí 2), theo VIS Ratings.

Huy động vốn được các ngân hàng đẩy mạnh kể từ quí 2, đặc biệt là kênh phát hành giấy tờ có giá (tăng 25% so với cuối năm 2024), giúp rút ngắn khoảng cách giữa tăng trưởng huy động và tín dụng toàn ngành. Thống kê từ 27 ngân hàng, tính đến cuối tháng 6, lượng huy động (bao gồm cả giấy tờ có giá) và tín dụng lần lượt tăng 10% và 10,2% so với đầu năm.

Xu hướng huy động vốn từ trái phiếu vẫn còn tiếp tục với các ngân hàng. Theo báo cáo thị trường trái phiếu doanh nghiệp mới đây của FiinGroup, lũy kế 8 tháng đầu năm các tổ chức tín dụng đã huy động hơn 272.600 tỉ đồng, tăng 50% so với cùng kỳ, tương đương 89,4% tổng giá trị phát hành năm 2024. Tương tự đây cũng là nhóm chủ đạo trong hoạt động mua lại trái phiếu trước hạn (tăng 33%), vốn được coi là “công cụ quản trị bảng cân đối và đảm bảo an toàn vốn”, theo FiinGroup.

Một nguồn “trợ lực” khác cho các nhà băng phải kể đến là lượng tiền gửi thanh toán không kỳ hạn (CASA). Thống kê của VIS Ratings cho thấy tỷ lệ CASA toàn ngành trong quí 2 phục hồi nhẹ (tăng 1,1% so với quí trước), sau khi ghi nhận sụt giảm trong quí đầu của năm.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra vẫn là lo ngại về khả năng huy động của các ngân hàng quy mô nhỏ, vốn có nền CASA thấp hơn nhiều so với các ngân hàng quốc doanh và quy mô vốn lớn đến trung bình. Nhóm này ghi nhận chi phí vốn tăng mạnh trong quí 2 (tăng 58 điểm cơ bản so với cùng kỳ).

Một điểm may mắn hiện nay là mặt bằng lãi suất huy động ở Việt Nam đang ở mức thấp, trong chu kỳ bắt đầu giảm dần từ giữa năm 2023 đến nay. Xu hướng giảm lãi suất của đồng đô la Mỹ cũng sẽ hỗ trợ phần nào cho dư địa mở rộng chính sách tiền tệ.

Tuy nhiên, các chuyên gia cũng cho rằng sẽ khó tiếp tục giảm lãi suất nếu không nhìn ra được xu hướng rõ hơn từ đồng bạc xanh. Mặt khác, trong thời gian qua một vài ngân hàng có tăng lãi suất huy động ở một số kỳ hạn, nhưng vẫn rời rạc và chưa ảnh hưởng chung đến thị trường.

Nhìn chung, đánh giá của hầu hết các nhà phân tích đều cho rằng đang thị trường đang dần phân hóa rõ rệt hơn. Thông tư 14 sẽ là chất xúc tác cho quá trình này nếu các ngân hàng không có sự cải thiện rõ rệt. Trong bối cảnh cơ quan quản lý hướng đến việc bỏ công cụ “room tín dụng”, việc sở hữu các tỷ lệ an toàn tốt còn ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng trong tương lai, từ đó gây áp lực ngược đến khả năng huy động vốn của chính các nhà băng.

D. Nguyễn

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/ngan-hang-duoi-nhung-ap-luc-tang-von-moi/