Ngành thủy sản nâng công nghệ để 'đổi vận'?

Khoa học công nghệ được xem là 'chìa khóa' để ngành thủy sản Việt Nam nói chung và vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng bứt phá trong giai đoạn tới. Kỳ vọng được đặt ra trong bối cảnh ngành hàng chủ lực này đang đối mặt tình trạng thiếu đột phá trong suốt nhiều năm qua…

Phát triển ngành thủy sản đang gặp nhiều thách thức. Ảnh: Trung Chánh

Phát triển ngành thủy sản đang gặp nhiều thách thức. Ảnh: Trung Chánh

Thủy sản trước nhiều thách thức

Bà Châu Thị Tuyết Hạnh, của Phòng Nuôi trồng thủy sản thuộc Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết châu Á hiện có 7 trong 10 quốc gia đứng đầu thế giới về nuôi trồng thủy sản, trong đó, có Việt Nam.

Tuy nhiên, ngành thủy sản toàn cầu đang đối mặt nhiều thách thức, bao gồm tác động của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, cùng với các yêu cầu ngày càng cao về truy xuất nguồn gốc, an toàn thực phẩm, sản xuất bền vững và có trách nhiệm xã hội.

Bà Hạnh dẫn số liệu của Tổ chức Nông lương Liên Hiệp Quốc (FAO), cho biết đến năm 2030, sản lượng thủy sản toàn cầu sẽ tăng khoảng 20% so với năm 2020, trong đó, hơn 50% sản lượng phục vụ tiêu dùng đến từ khu vực nuôi.

Riêng tại Việt Nam, thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn khi đóng góp khoảng 10 tỉ đô la Mỹ kim ngạch xuất khẩu vào năm ngoái (dự kiến đạt 10,5 tỉ đô la Mỹ năm 2025), tạo việc làm cho khoảng 4 triệu lao động. “Ngành này không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội lớn” bà Hạnh nói.

Thống kê của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, cho thấy trong một thập niên qua, sản lượng thủy sản Việt Nam tăng bình quân khoảng 5,5%/năm, trong khi xuất khẩu tăng khoảng 30%. Điều này cho thấy, tăng trưởng vẫn dựa chủ yếu vào sản lượng, chưa khai thác tốt giá trị gia tăng. “Đây là điều chúng ta cần nhìn lại” bà Hạnh nói.

Ngành thủy sản Việt Nam có cơ hội phát triển nhờ hành lang pháp lý tương đối đầy đủ thông qua các chương trình, chiến lược ngành và thị trường tiêu thụ rộng lớn, đặc biệt là lợi thế từ các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giúp giảm thuế quan.

Tuy nhiên, hai áp lực lớn vẫn đè nặng lên ngành thủy sản, đó là các rào cản thương mại và rào cản kỹ thuật phi thuế quan từ các thị trường nhập khẩu; những yếu kém nội tại của ngành như: hạ tầng chưa đồng bộ, sản xuất manh mún, thiếu nguyên liệu bền vững.

Ông Ngô Tiến Chương, Chuyên gia kỹ thuật cao cấp của Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ), cho biết Liên minh châu Âu (EU) đang yêu cầu sản phẩm nhập khẩu phải đạt chuẩn phát thải. “Từ năm 2027 trở đi, nếu không có chứng nhận giảm phát thải, rất khó vào EU,” ông cảnh báo.

Cùng với đó, như với con tôm- mặt hàng chủ lực chiếm khoảng 40% trị giá xuất khẩu ngành thủy sản của Việt Nam- đang mất dần sức cạnh tranh khi chi phí sản xuất cao nhất trong số các nước xuất khẩu lớn. “Tỷ lệ nuôi thành công ở Việt Nam chỉ khoảng 40%, trong khi Ecuador là 65%,” ông nói và cho biết, các yếu tố khác như giá thức ăn chăn nuôi cao cũng là trở ngại không nhỏ...

Khoa học công nghệ giúp vẽ lại cuộc chơi cho ngành thủy sản. Trong ảnh là chitosan được chiết suất từ vỏ, đầu tôm. Ảnh: Trung Chánh

Khoa học công nghệ giúp vẽ lại cuộc chơi cho ngành thủy sản. Trong ảnh là chitosan được chiết suất từ vỏ, đầu tôm. Ảnh: Trung Chánh

“Vẽ' lại cuộc chơi bằng công nghệ

Câu hỏi được đặt ra, cần làm gì để định hình lại “cuộc chơi” cho ngành thủy sản Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng?

Theo ông Chương của GIZ, suốt nhiều năm qua, ngành thủy sản Việt Nam không tạo được đột phá mới khi kim ngạch xuất khẩu chỉ quanh mức 3–4 tỉ đô la Mỹ/năm. Trong đó, năm 2021 đạt 3,7 tỉ đô la Mỹ; năm 2022 đạt 4,3 tỉ, năm 2023 và 2024 lần lượt đạt khoảng 3,4 tỉ và xấp xỉ 4 tỉ đô la Mỹ.

“Muốn thay đổi, chỉ có thể bằng công nghệ, nhưng quan trọng hơn là tư duy. Bởi, công nghệ không giải quyết được nếu chúng ta nhìn sai bản chất” ông Chương nhấn mạnh.

Ví dụ, trong 4 tỉ đô la Mỹ kim ngạch tôm xuất khẩu năm ngoái, phần lớn (60–65%) đến từ chính phẩm, còn lại (35–40%) phụ phẩm vẫn chưa được khai thác hiệu quả. “Đây chính là dư địa để tạo giá trị mới” ông nói.

Ông Phan Thanh Lộc, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp và Thực phẩm Việt Nam (VNF), chia sẻ câu chuyện từ Iceland- quốc gia có chưa tới 500.000 dân- đã mắc sai lầm khi khai thác cá tuyết đến cạn kiệt tài nguyên, làm sản lượng từ 500.000 tấn có lúc giảm xuống chỉ còn 130.000 tấn.

Từ thực tế nêu trên, Iceland “vẽ lại cuộc chơi” khi ứng dụng công nghệ để biến toàn bộ con cá, kể cả phụ phẩm thành tài nguyên giá trị cao. “Nhờ vậy, chỉ với chưa đến 200.000 tấn nguyên liệu, họ tạo ra khoảng 2 tỉ đô la Mỹ mỗi năm, trong khi vẫn phát triển bền vững về tài nguyên” ông Lộc cho biết.

Lấy cảm hứng từ cách làm của Iceland, VNF ra đời với mục tiêu biến chất thải thành tài nguyên. “Chúng tôi chọn công nghệ sinh học để tận dụng mọi giá trị từ vỏ, đầu tôm- thứ mà trước đây chỉ làm bột hoặc thức ăn chăn nuôi”, ông Lộc cho biết.

Từ vỏ và đầu tôm, VNF đã chiết xuất ra chitosan- một hoạt chất sinh học có giá trị cao, ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực, bao gồm xử lý vết thương vì có tính kháng khuẩn và xử lý nước uống. “Chúng tôi và đối tác Malaysia vừa đạt được thỏa thuận ứng dụng chitosan trong xử lý nước uống- thành quả sau hai năm đàm phán” ông chia sẻ.

Nếu nhìn rộng ra, với hàng chục triệu tấn phụ phẩm từ nông nghiệp và thủy sản, tiềm năng giá trị gia tăng là khổng lồ, nếu có công nghệ hợp lý. “Ở Iceland, mỗi kí lô gam phụ phẩm có thể tạo ra 2 đô la Mỹ. Nếu Việt Nam đạt 10 xu thôi, thì con số ấy cũng cực kỳ lớn,” ông Lộc ước tính.

Rõ ràng, cơ hội để “định vị lại cuộc chơi” cho thủy sản Việt Nam đang mở ra bằng công nghệ, bằng tư duy mới và bằng hành động cụ thể. “Nhưng, câu hỏi là chúng ta muốn đợi hay bắt đầu ngay?”, ông Lộc đặt vấn đề…

Trung Chánh

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/nganh-thuy-san-nang-cong-nghe-de-doi-van/