Nghị quyết 70 Bộ Chính trị: Đưa tỷ lệ năng lượng tái tạo lên 30% trong tổng cung năng lượng vào 2030

Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 70-NQ/TW, đặt mục tiêu năng lượng tái tạo chiếm 30% tổng cung vào năm 2030, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.

Nghị quyết nêu rõ ngành năng lượng đã duy trì tăng trưởng ổn định, cơ bản bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho phát triển nhanh và bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước và nâng cao đời sống người dân.

Tuy vậy, ngành năng lượng vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Đáng chú ý, thể chế, chính sách, công tác quản lý phát triển ngành năng lượng còn bất cập. Tiến độ thực hiện nhiều dự án điện còn chậm; tiềm năng về năng lượng chưa được khai thác hiệu quả. Nguồn cung năng lượng còn phụ thuộc vào nhập khẩu, nguy cơ thiếu điện cho giai đoạn tăng trưởng hai con số là hiện hữu.

Thị trường năng lượng cạnh tranh phát triển chưa đồng bộ, thiếu liên thông giữa các phân ngành, nhất là thị trường điện còn nhiều hạn chế; chính sách giá năng lượng còn bất cập, chưa thực sự phù hợp với cơ chế thị trường; vẫn còn tình trạng bù chéo giá điện đối với một số nhóm khách hàng...

Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và các chỉ tiêu đến 2030

Nghị quyết nêu năm quan điểm lớn: Đảng lãnh đạo toàn diện; Nhà nước kiến tạo thể chế, chính sách đột phá và kiểm soát hạ tầng chiến lược; người dân và doanh nghiệp là trung tâm, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, khu vực tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất; phát triển năng lượng theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường; xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch, áp dụng giá thị trường, không bù chéo; phát triển đồng bộ, hợp lý các loại hình năng lượng, ưu tiên năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch; khai thác hợp lý nguồn hóa thạch trong nước, phát triển điện hạt nhân, điện khí, có lộ trình giảm tỷ trọng điện than; khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để từng bước làm chủ công nghệ hiện đại, trong đó có công nghệ năng lượng nguyên tử và sản xuất thiết bị.

Mục tiêu tổng quát đến năm 2030 là bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng; cung cấp năng lượng đầy đủ, ổn định, chất lượng cao và giảm phát thải; ngành năng lượng phát triển hài hòa với hạ tầng đồng bộ, thông minh, đạt trình độ tiên tiến ASEAN; thị trường cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả; khai thác nhanh và sử dụng hiệu quả tài nguyên trong nước kết hợp nhập – xuất khẩu hợp lý; nhiều vật tư thiết bị chính được sản xuất trong nước; lưới truyền tải, phân phối hiện đại, thông minh.

Các chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030 gồm: tổng cung năng lượng sơ cấp khoảng 150–170 triệu tấn dầu quy đổi; tổng công suất nguồn điện khoảng 183–236 GW (có thể cao hơn tùy nhu cầu hệ thống và tình hình phát triển từng thời kỳ); tổng sản lượng điện khoảng 560–624 tỷ kWh; tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cung sơ cấp khoảng 25–30%; tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng khoảng 120–130 triệu tấn dầu quy đổi. Hệ thống điện thông minh, hiệu quả, kết nối an toàn với lưới khu vực; bảo đảm tiêu chí N-1 với vùng phụ tải quan trọng và N-2 với vùng phụ tải đặc biệt quan trọng; độ tin cậy cung cấp điện và chỉ số tiếp cận điện năng thuộc tốp 3 ASEAN. Các cơ sở lọc dầu đáp ứng tối thiểu 70% nhu cầu xăng dầu trong nước; dự trữ xăng dầu đạt khoảng 90 ngày nhập ròng; hình thành trung tâm năng lượng tập trung LNG theo vùng. Tỷ lệ tiết kiệm năng lượng trên tổng tiêu thụ cuối cùng so với kịch bản bình thường khoảng 8–10%; giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động năng lượng khoảng 15–35% so với kịch bản bình thường.

Tầm nhìn đến năm 2045: bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng; thị trường cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả; ngành năng lượng phát triển đồng bộ, bền vững, sử dụng hiệu quả tài nguyên, giảm phát thải và thích ứng biến đổi khí hậu; hạ tầng thông minh, hiện đại, kết nối hiệu quả khu vực và quốc tế; chất lượng nhân lực, trình độ khoa học – công nghệ và năng lực quản trị đạt ngang các nước công nghiệp phát triển hiện đại.

Bảy nhóm nhiệm vụ, giải pháp

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia của hệ thống chính trị, nhân dân trong bảo đảm an ninh năng lượng; nâng cao hiệu lực quản lý, phân định rõ trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa Trung ương – địa phương; tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm tiến độ, chất lượng các dự án; đẩy mạnh tuyên truyền, thay đổi hành vi sử dụng năng lượng; nhân rộng mô hình tự sản xuất – tự tiêu thụ, mô hình cộng đồng năng lượng; thúc đẩy mua bán điện trực tiếp giữa nguồn và tải.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế, chính sách trở thành lợi thế cạnh tranh và động lực phát triển: quyết liệt hoàn thiện và triển khai hiệu quả pháp luật về điện lực, dầu khí, địa chất và khoáng sản, năng lượng nguyên tử, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; tháo gỡ điểm nghẽn về quy hoạch, cấp phép, huy động vốn; có cơ chế đặc thù thu hút dự án quan trọng, cấp bách; hoàn thiện chính sách tài chính – tín dụng – thuế khuyến khích năng lượng sạch, tái tạo, lưu trữ, dự trữ; công khai danh mục dự án năng lượng, áp dụng đấu thầu cạnh tranh kết hợp giao thực hiện dự án quy mô lớn, nhạy cảm về an ninh – quốc phòng; kiểm soát hợp đồng mua bán điện (PPA); phòng chống tham nhũng, lợi ích nhóm; nâng chất lượng chiến lược, quy hoạch (đặc biệt Quy hoạch điện VIII điều chỉnh), cho phép xử lý dự án trọng yếu khác với quy hoạch mà không cần điều chỉnh quy hoạch trước, sau đó cập nhật; phát triển thị trường năng lượng đồng bộ, liên thông điện – than – dầu khí – tái tạo; giá do thị trường quyết định có quản lý của Nhà nước, không bù chéo; cải cách thủ tục, cắt giảm 30–50% thời gian, chi phí; trong năm 2025 hoàn thành tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế cản trở phát triển ngành.

Thứ ba, phát triển nguồn cung và hạ tầng, bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng: đa dạng hóa nguồn trong nước và nhập khẩu; ưu tiên phát triển trong nước, nâng mức năng lượng sơ cấp bình quân đầu người vào nhóm 4 ASEAN; hình thành trung tâm công nghiệp năng lượng tích hợp khí, LNG, điện, lọc – hóa dầu, năng lượng tái tạo; đẩy nhanh dự án nguồn – lưới, xử lý nghiêm nhà đầu tư chậm/không triển khai; dầu khí: gia tăng trữ lượng, sản lượng, thăm dò nước sâu xa bờ gắn bảo vệ chủ quyền; phát triển công nghiệp khí, hạ tầng LNG, thị trường khí 30–35 tỷ m³/năm; than: khai thác trong nước an toàn, hiệu quả; linh hoạt nhập khẩu, dự trữ đủ lớn; nghiên cứu bể than Sông Hồng; năng lượng tái tạo, năng lượng mới: ban hành tiêu chuẩn, tỷ lệ, thị trường REC; ưu tiên gió, mặt trời; nghiên cứu địa nhiệt, sóng, thủy triều, hải lưu; thí điểm hydro, amoniac; điện: cơ cấu hợp lý theo lợi thế vùng, đảm bảo đủ điện; hiện đại hóa điều độ; nghiên cứu siêu cao áp, một chiều, ngầm dưới biển; thủy điện: phát huy, mở rộng, đẩy nhanh tích năng, hợp tác nhập khẩu điện; gió, mặt trời: chính sách tháo gỡ, cơ chế đột phá cho gió ngoài khơi; xử lý dứt điểm vướng mắc dự án theo nguyên tắc “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”; nhiệt điện: ưu tiên khí trong nước, tháo gỡ cơ chế giá điện LNG; nâng cấp công nghệ nhà máy than, khuyến khích chuyển đổi nhiên liệu; đồng phát – nhiệt dư – sinh khối – rác thải: phát triển tối đa, không bị giới hạn bởi quy mô quy hoạch; điện hạt nhân: khẩn trương triển khai Ninh Thuận 1, 2 với đối tác phù hợp, vận hành giai đoạn 2030–2035; xây dựng chương trình phát triển theo quy mô linh hoạt, nhà máy module nhỏ, làm chủ dần công nghệ, bảo đảm an ninh, an toàn tuyệt đối; dự trữ chiến lược: xây dựng chiến lược dự trữ năng lượng quốc gia, đầu tư kho dự trữ dầu, khí, than trên đất liền và trên biển; phát triển hệ thống lưu trữ (pin quy mô lớn, công nghệ lưu trữ tiên tiến); công nghiệp thiết bị: xây dựng tập đoàn công nghiệp năng lượng đủ khả năng tổng thầu EPC, tăng nhanh nội địa hóa; hạ tầng: dữ liệu năng lượng quốc gia, xã hội hóa hạ tầng, xác định hạ tầng dùng chung – hạ tầng chiến lược do Nhà nước kiểm soát; phát triển lưới 500 kV, 220 kV, trạm biến áp; kết nối liên thông với Campuchia, Lào…, huy động tư nhân đầu tư truyền tải theo PPP.

Toàn cảnh Tổ hợp Năng lượng tái tạo Điện mặt trời và Điện gió lớn của Trungnam Group tại Xã Bắc Phong và xã Lợi Hải, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận. Ảnh: TrungNam

Toàn cảnh Tổ hợp Năng lượng tái tạo Điện mặt trời và Điện gió lớn của Trungnam Group tại Xã Bắc Phong và xã Lợi Hải, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận. Ảnh: TrungNam

Thứ tư, đẩy mạnh tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu; thiết lập quản trị và ứng phó rủi ro: thực hiện Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Chương trình quản lý nhu cầu điện; quy định chỉ tiêu bắt buộc tiết kiệm theo ngành, lĩnh vực, địa phương; tiêu chuẩn – quy chuẩn hiệu suất thiết bị, phương tiện, công trình; loại bỏ thiết bị lạc hậu; nghiên cứu quỹ phát triển năng lượng bền vững; triển khai giảm phát thải phù hợp cam kết quốc tế; lộ trình giảm nhiên liệu hóa thạch, chuyển đổi sang khí, sinh khối, hydrogen, amoniac; nghiên cứu thuế carbon, tiêu chuẩn hạn mức phát thải; hệ thống MRV khí nhà kính; cơ chế tín chỉ carbon, thị trường carbon; công nghệ thu hồi, lưu giữ, tái sử dụng carbon; kinh tế tuần hoàn trong năng lượng; đầu tư xử lý khí – nước thải theo chuẩn quốc tế; quan trắc môi trường tự động; kịch bản ứng phó thiên tai, hạn hán, thiếu nước; bảo đảm an toàn công trình thủy điện, vùng hạ du.

Thứ năm, huy động mọi nguồn lực xã hội, khuyến khích mạnh mẽ khu vực tư nhân: cơ chế tín dụng ưu đãi/bảo lãnh cho dự án quan trọng (kể cả BOT điện); phát hành trái phiếu trong/ngoài nước; trao quyền tự chủ doanh nghiệp; củng cố vai trò dẫn dắt doanh nghiệp nhà nước; thu hút vốn ODA, JETP, phát triển trái phiếu xanh, tín dụng xanh; hoàn thiện pháp luật thực thi hợp đồng, giải quyết tranh chấp; xử lý dứt điểm dự án, hợp đồng tồn đọng; phát triển thị trường điện cạnh tranh, cơ chế mua bán điện trực tiếp (PPA) minh bạch, ổn định, dài hạn; khuyến khích tư nhân đầu tư lưu trữ, kho LNG, kho xăng dầu; đổi mới cơ chế giá truyền tải để thu hút đầu tư lưới điện.

Thứ sáu, tạo đột phá khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và đào tạo nhân lực: triển khai Nghị quyết 57 về khoa học – công nghệ trong năng lượng; rà soát, sửa đổi luật liên quan để thúc đẩy R&D; đầu tư tối thiểu 2% GDP ngành năng lượng cho nghiên cứu – phát triển; hình thành trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm trọng điểm; thu hút 60–80 dự án chuyển giao công nghệ tiên tiến; phát triển lưới và quản lý năng lượng thông minh trong công nghiệp, giao thông, xây dựng; đào tạo 25.000–35.000 kỹ sư, chuyên gia, ưu tiên điện hạt nhân; chính sách thu hút chuyên gia trong và ngoài nước.

Thứ bảy, tăng cường hợp tác quốc tế: mở rộng hợp tác trong tất cả phân ngành; tham gia sáng kiến, cam kết về chuyển dịch năng lượng, giảm phát thải; triển khai hiệu quả JETP; tháo gỡ cơ chế cho dự án hợp tác liên quan tài nguyên, chuyển đổi năng lượng, thích ứng khí hậu; chủ động kế hoạch nhập khẩu điện từ láng giềng; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư dự án năng lượng ở nước ngoài để nhập khẩu về Việt Nam; thúc đẩy kết nối lưới ASEAN và miền Nam Trung Quốc; phát triển dự án xuất khẩu điện năng lượng tái tạo; hợp tác điện hạt nhân với các nước có công nghệ tiên tiến; tích cực tham gia các tổ chức quốc tế, đặc biệt IAEA.

Duy Khánh

Nguồn Kinh tế Môi trường: https://kinhtemoitruong.vn/nghi-quyet-70-bo-chinh-tri-dua-ty-le-nang-luong-tai-tao-len-30-trong-tong-cung-nang-luong-vao-2030-101694.html