Người chép sử làng dưới chân núi Hải Vân
Với một tình yêu đặc biệt dành cho nơi mình sinh ra và lớn lên, nhiều năm qua, thông qua các bậc cao niên đi trước, ông Đặng Dùng (ở làng Nam Ô, phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng) đã kiên trì sưu tầm những câu chuyện về làng mình. Với ông, làng biển chỉ rộng tầm 1km2 này chứa đựng những giá trị văn hóa, lịch sử rất đáng giá và cần gìn giữ cho thế hệ sau trước bao biến động của thời cuộc.
Mỗi góc làng là một câu chuyện kể
Sinh ra và lớn lên ngay trong làng biển Nam Ô, ngày nhỏ, ông Đặng Dùng thường được ông ngoại cho đi theo trong các cuộc chuyện trò với những người lớn tuổi. Trước người lớn, cậu bé Đặng Dùng luôn đặt câu hỏi tại sao, có từ bao giờ... mỗi khi bắt gặp một di tích, một câu chuyện văn hóa truyền thống. “Tôi cứ đi tìm tòi, giải mã từng câu hỏi như một thói quen, từ đó, dần định hình được lịch sử hình thành và quá trình sinh sống của người dân ở mảnh đất bên ghềnh chân sóng này” - ông Dùng nói.
Làng chài cổ Nam Ô nằm dưới chân đèo Hải Vân nổi tiếng với nghề biển và nghề nước mắm trứ danh. Cho đến hiện tại, Nam Ô vẫn lưu giữ các nét văn hóa đặc trưng của một làng biển thuở xa xưa. Năm 2019, nghề nước mắm truyền thống của Nam Ô được xếp vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Năm 2020, cụm di tích tâm linh của làng biển Nam Ô gồm: Giếng làng, dinh Cô hồn, lăng Ông, đình làng Nam Ô, miếu bà Liễu Hạnh... được UBND thành phố Đà Nẵng xếp hạng Di tích cấp thành phố.
Ở tuổi 73, ông Dùng vẫn mê đọc sách. Mỗi lần phát hiện được các chi tiết, câu chuyện liên quan về Nam Ô, ông đều dừng lại ngẫm nghĩ, nghiên cứu rồi tìm tài liệu đối chiếu, từ đó, hình dung ra lịch sử hình thành. Để có thêm sự am hiểu tường tận, ông Dùng mày mò học chữ Hán - Nôm. Với vốn từ học được, ông đọc sách, dịch các từ viết trên các di tích miếu mạo, giếng... Khi tìm được cuốn sách nào nói về làng, ông lập tức đối chiếu để có chứng cứ xác thực từ những câu chuyện truyền miệng mà ông từng nghe được từ người lớn để rồi lý giải cho những thắc mắc chưa được làm rõ.
Với cái tên Nam Ô, nhiều người cho rằng, Nam Ô là cửa ngõ phía Nam của Châu Ô, nhưng ông Dùng lại cho rằng, cái tên làng xuất phát từ Nam Ổ. Đây vốn là tên một nhà trạm (nhà trạm để quan quân đi lại nghỉ ngơi và chuyển tiếp công văn, thư từ từ kinh đô đến các địa phương trong nước) bên cạnh đường cái từ thời Gia Long thứ 15. Tên Nam Ổ xuất hiện vào năm Thiệu Trị thứ 1 (năm 1841).
Sách Đại Nam nhất thống chí ghi rằng: “Trạm Nam Ổ đặt ở xã Cu Đê, trước kia là trạm Cu Đê. Năm Minh Mệnh thứ 3 (năm 1822) đổi tên trạm là Nam Hoa. Đến năm Thiệu Trị thứ 1 (năm 1841) đổi tên trạm thành Nam Ổ”. Riêng từ “Ổ” thành từ “Ô”, tác giả Nguyễn Minh Triều lý giải trong cuốn sách “Quảng Nam - Đà Nẵng qua các triều đại phong kiến”: “Nam Ổ lần hồi các công văn, văn bản, bản đồ của người Pháp. Tiếng Pháp không dấu thanh, cứ thế gọi Nam Ô, lâu ngày thành quen”.
Ông Dùng cho biết, ngoài các di tích lịch sử miếu mạo, đền thờ Huyền Trân công chúa, làng nghề nước mắm truyền thống nổi tiếng hay nghề làm pháo nổ, làng Nam Ô còn có những cái giếng cổ. Nam Ô chỉ rộng tầm 1km2 nhưng có tới 8 cái giếng vuông. Những cái giếng này được ghép kỳ công từ những tấm đá thanh trên những mạch nước ngầm. Các bậc cao niên cho rằng, xưa kia, giếng được khắc thời gian trên thành và đến nay có tuổi đời khoảng 300 năm. Qua thời gian nhiều lần trùng tu của bà con, mốc thời gian bị vôi vữa che khuất. Nhiều người cho rằng, giếng này của người Chăm Pa, một số khác lại bảo của người Đại Việt. Theo ông Dùng, dù chưa thực hư nguồn gốc chính xác, nhưng những cái giếng biểu hiện một đời sống tấp nập nơi làng biển một thuở.
Ước mơ in sách về chuyện sử làng
Vài năm trước, làng biển Nam Ô được quy hoạch một phần để phát triển du lịch. Làng nhường phía mặt biển lại cho doanh nghiệp đầu tư. Người dân nối với biển thông qua những con đường bê tông rẽ xuống biển thay vì thoải mái ngắm nhìn sự tấp nập trên bãi biển ngay trong sân nhà mình như trước đó. Thuyền bè ngày một thưa vắng hơn. Ông Dùng lo ngại, công cuộc bê tông hóa làm phai mờ dấu tích, bởi vậy, ông càng tìm tòi, ghi lại thành từng bài nghiên cứu, kể chuyện về làng mình.
Hàng chục bài viết được ông dày công viết nên và được đăng tải trên báo chí. Mỗi câu chuyện kể đều gắn liền với làng biển Nam Ô như: Giếng cổ, núi cấm rừng thiêng ở mỏm Hạc, chuyện mộ Tiền hiền Triệu Cơ, ngôn ngữ làng biển qua các bài vè, bài khấn trong các lễ hội làng mang đậm văn hóa xứ biển... “Tôi đã tập hợp các bài báo thành cuốn sách dày 400 trang. Tôi mong sách được hỗ trợ in ấn để giữ lại cho con cháu mai sau. Lịch sử là câu chuyện cần sự tiếp nối. Nếu để đứt đoạn sẽ dễ lãng quên hoặc nhạt nhòa” - ông Dùng trải lòng.
Điều làm ông Dùng vui nhất là công cuộc quy hoạch phát triển du lịch ở Nam Ô vẫn giữ lại khá đầy đủ các di tích, nhưng ông trăn trở về giá trị văn hóa tinh thần của một làng biển cổ xưa mà cha ông để lại được bồi đắp qua nhiều thế hệ. Làm sao để du khách biết đến một Nam Ô với bề dày truyền thống để mỗi người con Nam Ô cảm thấy tự hào hơn khi nhắc đến tên đất, tên làng của xứ sở mình. Du lịch như thế mới bền vững. Như một nỗ lực để ghi lại sử làng, ông Dùng lặng lẽ với việc đọc sách, tìm tòi, nghiên cứu và ghi lại. Ở tuổi thất thập, ông vẫn cọc cạch gõ bàn phím mỗi đêm.
“Ở tuổi này rồi, tôi không nghĩ sẽ làm gì cho riêng mình mà là phải làm điều gì đó cho vùng đất này, cho con cháu mai sau tự hào về làng cổ của mình” - ông Dùng bộc bạch.
Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/nguoi-chep-su-lang-duoi-chan-nui-hai-van-post451173.html