Người Cơ Ho, đời sống và âm nhạc giữa đại ngàn Tây Nguyên

Người Cơ Ho (K'ho, Kaho) là đồng chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh, nhưng khi nhìn các cô gái, chàng trai hát múa, tôi không nhìn thấy hoa tai hai đầu thú của người Sa Huỳnh cổ xưa 2.500 năm trước, chỉ thấy ánh mắt long lanh của các cô gái, âm thanh của đàn đá Lithophone, tiếng kèn M'buốt, điệu chiêng 'Cing tinh'. Cuộc sống, văn hóa của người Cơ Ho giờ đây thường xuyên được giới thiệu trong các tour du lịch cộng đồng, trong đó, những phong tục tốt đẹp của người Cơ Ho luôn được đề cập, đó là sự thủy chung, vợ chồng sống với nhau trọn đời như lời hứa khi yêu nhau.

Một tiết mục biểu diễn nhạc cụ của người Cơ Ho. Ảnh: Lê Văn Chương

Một tiết mục biểu diễn nhạc cụ của người Cơ Ho. Ảnh: Lê Văn Chương

Năm 1980, trong khi làm rẫy, những người nông dân ở thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng đã phát hiện ra 8 khối đá có hình dạng như những thanh củi; khi gõ vào từng thanh sẽ phát ra những âm thanh trầm bổng, du dương khác nhau. Các nhà khảo cổ đã tiếp nhận và đặt cho cổ vật này tên gọi "đàn đá B’lao". Đàn đá này có thang âm từ 6 đến 8 nốt; các thanh đá được đẽo bằng tay nên không có thanh nào giống thanh nào về mặt hình thức. Sự kiện này được tỉnh Lâm Đồng đánh dấu là một sự kiện mang dấu ấn, vì vậy, trong Bảo tàng Lâm Đồng trưng bày nhiều hình ảnh và hiện vật về đàn đá B’lao.

Và giờ đây, trong các buổi biểu diễn của người Cơ Ho ở vùng đất Tây Nguyên, tiếng đàn đá vang lên, hòa cùng tiếng kèn M’buốt, điệu chiêng “Cing tinh”. Cô gái người Cơ Ho có dáng người cao, mắt bồ câu, nụ cười với chiếc răng khểnh, thân hình đầy đặn trong bộ váy áo thổ cẩm có hoa văn khá giống với áo thổ cẩm của người Cơ Tu và H’re ở tỉnh Quảng Ngãi và thành phố Đà Nẵng. Nhìn đôi tay của cô múa dẻo như đóa hoa đang nở, tôi bất giác liên tưởng đến cánh tay trần và đôi vai trắng nõn của các cô gái người Cơ Tu với điệu tâng tung da dá để kết nối với trời đất, cầu mong một năm mùa màng no đủ.

Người Cơ Ho cũng giống như các dân tộc ở vùng đất Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Huế, đó là đầu mùa thì tổ chức lễ hội mừng lúa mới (Yang Bơ Nơng). Giờ đây, các lễ hội đó đã được đưa ra khỏi buôn làng, tổ chức hàng đêm tại các điểm du lịch để phục vụ du khách. Các chàng trai người Cơ Ho để mình trần, đóng khố, các cô gái người Cơ Ho với bộ váy bó sát người và bước theo làn điệu hát cúng thần: “Lạy các thần của đất, của lúa, của suối nguồn”, hoặc các bài hát giao duyên: “Em như bông lúa chín/ Anh như chim tìm về/ Rượu cần thơm đêm lễ/ Hát cùng em lời mê...”.

Các cô gái Cơ Ho xinh đẹp biểu diễn các làn điệu ca ngợi tình yêu. Ảnh: Lê Văn Chương

Các cô gái Cơ Ho xinh đẹp biểu diễn các làn điệu ca ngợi tình yêu. Ảnh: Lê Văn Chương

Trong giao lưu với du khách, người Cơ Ho thường giới thiệu về mình, họ tin vào sức mạnh siêu nhiên, thờ đa thần. Vị thần tối cao là Nđu, sau đó là thần Mặt trời, Mặt trăng, thần Núi, thần Sông. Bởi vậy, trong quan niệm của họ có một bên là thần linh (Yang) luôn phù hộ cho con người và một bên là ma quỷ (Chà) thường ám hại, gây ra những tai họa cho con người. Quan niệm đó hiện ra qua những nghi lễ được người Cơ Ho thực hiện trước khi tổ chức một chương trình văn nghệ phục vụ cộng đồng, còn thường ngày, mỗi khi bắt tay vào vụ mùa mới, cưới xin, tang ma, ốm đau..., người Cơ Ho đều tổ chức cúng viếng thần linh để cầu xin. Đối với thế hệ trẻ người Cơ Ho bây giờ, có người đã lấy sự khác biệt đó để tạo ra thương hiệu sản phẩm OCOP, ví dụ như cà phê K’ho, cà phê Ýu M’nang, mật ong rừng Pơ Kao, làng du lịch K’ho Cil. Những sản phẩm OCOP này không thua kém gì sản phẩm của đồng bào vùng cao ở Quảng Ngãi, Đà Nẵng.

Trong các tư liệu lịch sử có nhắc đến Công sứ Pháp tại Đà Lạt giai đoạn 1912-1913 là Sabatier - người đầu tiên phát hiện và ghi chép bản sử thi Đam San của người Ê Đê. Người Pháp lúc đó cũng tò mò trước hình ảnh người Cơ Ho với bộ quần áo bằng vỏ cây rừng. Nhưng giờ đây, trang phục của người Cơ Ho là những bộ quần áo thổ cẩm rất đẹp, đàn ông đóng khố, phụ nữ mặc váy bó, trên nền vải dệt những sọc ngang, kẻ ca rô, hình cong uốn lượn tượng trưng cho núi, rẫy, nước, tổ tiên. Người đàn ông thường đeo vòng tay, vòng cổ bằng đồng, bạc hoặc hạt cườm.

Chị Cil Nil ở phường Cam Ly - Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng chia sẻ, trước đây, các điệu múa hát của người Cơ Ho chủ yếu chỉ được biểu diễn trong buôn làng vào dịp lễ hội, nhưng bây giờ, ngành du lịch tổ chức các tour về với người Cơ Ho, vì vậy, có khi ngày nào cũng biểu diễn một vài lần, sau đó giao lưu với du khách, nói chuyện với khách du lịch về truyền thống của người Cơ Ho hiện nay còn được gìn giữ, những phong tục đẹp, những món ăn ngon của người Cơ Ho, những câu thơ được lưu truyền từ ngày xưa như: “Xưa xửa xừa xưa/ Đất một cục/ Chim một tổ/ Con chỉ có một cha một mẹ”.

Biểu diễn đàn đá năm 1980, tại phường Xuân Hương - Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, mừng sự kiện phát hiện đàn đá B’lao của người Cơ Ho. Ảnh: Tư liệu

Biểu diễn đàn đá năm 1980, tại phường Xuân Hương - Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, mừng sự kiện phát hiện đàn đá B’lao của người Cơ Ho. Ảnh: Tư liệu

Những giá trị văn hóa của người Cơ Ho được giữ gìn lâu bền. Vì chủ của các gia đình đều biết hát đối đáp để mời khách vào nhà chơi. Nếu là chàng trai trẻ tới thăm nhà của cô gái thì phải chuẩn bị trước vài câu hát giao duyên để kết bạn, bên cạnh đó là biết cách sử dụng kèn môi, khi thổi phát ra âm điệu réo rắt nói lên lòng mình. Khi mọi người đã say tiếng kèn thì cùng ngồi bên nhau quanh bếp lửa, nhìn nhau qua khói bếp lan tỏa, rồi kể chuyện chọc lỗ, tra hạt lúa trên sườn núi, nghề dệt vải, nghề nặn gốm nhưng không có bàn xoay mà chỉ dựa vào đôi tay khéo léo...

Hiện nay, tỷ lệ ly hôn ở Việt Nam tiếp tục tăng. Nếu các cặp đôi uyên ương gặp một gia đình trẻ người Cơ Ho thì sẽ học được ở họ mối quan hệ thủy chung, son sắt vợ chồng qua những lời ước hẹn giống như người Ê Đê, M’nông, Gia Rai, Ba Na, Xơ Đăng ở đại ngàn Tây Nguyên: “Về với vợ như cá về với nước, con trâu đã đâm, chiêng ché đã trao, yêu người ta phải cưới, lấy người ta thuộc về người”. Giao lưu văn hóa với người Cơ Ho không chỉ là xem múa hát, mà còn cảm nhận được văn hóa đặc sắc; cảm nhận ở họ những đức tính thương người, sống nặng nghĩa tình, sống thuận theo tự nhiên, không bon chen, lắng nghe người lớn; trong hôn nhân luôn gắn với câu “Về với vợ như cá về với nước”.

Năm 2022, tỉnh Lâm Đồng đã tổ chức Ngày hội Văn hóa, thể thao các dân tộc, nhân đó, phục dựng lại lễ hội mừng lúa mới của người Cơ Ho để nét văn hóa của người Cơ Ho không bị mai một. Trong buổi lễ, già làng đã đọc to gửi lời khấn tới Yang: “Xin Yang năm cũ đã qua, năm mới đã tới, xin Yang cho một vụ mùa bội thu, mưa thuận, gió hòa, núi rừng yên ổn, dân làng no ấm, cho lúa nhiều hạt, đặng năm nay đủ ăn, dư đến sang năm”.

Lê Văn Chương

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/nguoi-co-ho-doi-song-va-am-nhac-giua-dai-ngan-tay-nguyen-post498564.html