Người 'tiếp lửa' gia phong cho các thế hệ con cháu
Năm nay, nhân ngày giỗ lần thứ 42 của cụ Mai Khoa Kỳ, người chiến sĩ cách mạng kiên trung (quê ở thôn Giang Nam, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, Bình Định), đại gia đình lại sum họp đông đủ để dâng nén hương tưởng niệm, tri ân người ông, người cha hiền từ, mẫu mực.

Đại gia đình sum họp nhân ngày giỗ của cụ Mai Khoa Kỳ
Đây cũng là dịp để các thế hệ con cháu cùng nhau trân trọng và tiếp nối những giá trị mà cụ để lại: Lòng yêu nước, lối sống đạo đức, nhân hậu và tinh thần gắn bó, sẻ chia - nền tảng bền vững nuôi dưỡng nề nếp gia phong qua thời gian.
Trọn tình với nước, trọn nghĩa với nhà
Trong ký ức của bà Hồ Kim Chi, người cháu ngoại sinh năm 1979, cụ Mai Khoa Kỳ là một người ông nhanh nhẹn, luôn nở nụ cười đôn hậu và ánh nhìn ấm áp. Dáng cụ đi về quen thuộc trên chiếc xe đạp sườn ngang, mỗi lần ghé thăm đều ân cần hỏi han sức khỏe, công việc, chuyện học hành của con cháu, rồi trước khi rời đi lại ôm lấy đứa cháu nhỏ, âu yếm nói: “Ông về nhé…”.
Ký ức về cụ vẫn luôn sống động trong lời kể của má, các dì, các cậu, những người con của cụ. Mỗi khi có dịp nhắc lại chuyện xưa, họ lại bùi ngùi: “Nhớ cha mình hồi đó…”. Và trong dòng hồi tưởng ấy, hình ảnh người trai trẻ vùng quê nghèo Tình Giang dần hiện lên rõ nét - một người không cam chịu áp bức, đã cùng đồng chí vận động quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền huyện Tuy Phước năm 1945, góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng.
Từ năm 1945-1950, cụ Mai Khoa Kỳ là một trong những cán bộ chủ chốt của Huyện ủy Tuy Phước, đồng thời là Bí thư Chi bộ đầu tiên của xã Phước Hiệp. Tháng 10 năm 1950, cụ được tổ chức điều động làm Bí thư Huyện ủy Anh Dũng (tỉnh Lâm Đồng), rồi sau 3 năm trở về quê nhà tiếp tục công tác.
Thời gian tập kết ra Bắc, cụ tiếp tục cống hiến trong lĩnh vực xây dựng - tham gia chỉ đạo nhiều công trình lớn như Nhà máy dệt Nam Định 8/3, Sân bay kép Hà Nội... thuộc Bộ Kiến trúc (nay là Bộ Xây dựng), khi đó do cố Tổng Bí thư Đỗ Mười làm Bộ trưởng.
Trọn đời làm việc tận tụy, đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và kiến thiết đất nước, cụ Mai Khoa Kỳ đã được trao tặng nhiều Huân chương và Bằng khen cao quý: Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba (1961) do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tặng; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất (1987) do Chủ tịch nước Trường Chinh ký tặng...
Trong ký ức của người dân địa phương và những đồng đội năm xưa, cụ luôn là người cán bộ mẫu mực, sống giản dị, hết lòng vì bà con nông dân, chưa từng nghĩ đến lợi ích riêng. Năm 1975, khi được tỉnh xét cấp nhà, cụ đã từ chối và nhường suất cho những đồng chí có hoàn cảnh khó khăn hơn, rồi về quê, lặng lẽ dựng lại ngôi nhà cũ bị bom Mỹ phá hủy năm 1964, an cư bên con cháu.

Chứng nhận Đại võ sư Mai Khoa Kỳ do Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam truy tặng
Thắp sáng gia phong bằng nghĩa tình và khí phách
Sinh ra và lớn lên trên đất võ Bình Định, cụ Mai Khoa Kỳ sớm bộc lộ khí chất cương trực, kiên cường. Năm 1936, cụ ra Huế, xin vào Võ đường Bửu Tuyền để theo học võ thuật. Chỉ hai năm sau, cụ làm nên kỳ tích tại đấu trường Quy Nhơn, giành chức vô địch Trung Kỳ.
Năm kế tiếp, cụ tiếp tục khẳng định tài năng khi đánh bại nhiều võ sĩ nước ngoài, đoạt Cúp Đồng Đen danh giá và trở thành nhà vô địch Đông Dương. Báo chí thời ấy ca ngợi cụ như một biểu tượng của võ thuật Việt. Năm 2019, Hiệp hội Võ thuật cổ truyền Việt Nam truy tặng cụ Mai Khoa Kỳ danh hiệu Đại võ sư - một sự ghi nhận xứng đáng cho tài năng và cống hiến của cụ.
Không chỉ là võ sư đầy khí phách, cụ Mai Khoa Kỳ còn là một chiến sĩ cách mạng kiên trung. Năm 1955, theo chủ trương của Đảng, cụ tập kết ra Bắc, mang theo hai con nhỏ. Suốt 21 năm trên đất Bắc, cụ vừa hoàn thành tốt nhiệm vụ Đảng và Nhà nước giao, vừa chăm lo chu toàn cho các con.
Sau ngày đất nước thống nhất năm 1975, cụ trở về quê hương giữa lúc địa phương còn thiếu nhân lực. Dù đã cao tuổi, cụ vẫn tiếp tục gánh vác trách nhiệm với cộng đồng, đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Mặt trận phường Nhơn Phú (TP Quy Nhơn). Từ một chiến sĩ ngoài chiến trường đến người cán bộ dân vận giữa đời thường, cụ luôn tận hiến vì dân, vì nước với một tinh thần không mỏi mệt.
Trong ký ức gia đình, cụ là người chồng thủy chung, người cha tận tụy, người ông hiền từ. Những năm tháng ở quê, cụ và người vợ hiền tảo tần bên ruộng đồng, chắt chiu từng bữa cơm để nuôi đàn con khôn lớn. Cuộc sống vất vả, nhưng các con chưa bao giờ thiếu tình thương hay cơ hội học hành.
Nỗi đau lớn nhất ập đến khi cụ bà qua đời, để lại người con út mới 18 tháng tuổi. Gánh vác cả hai vai, cụ vừa làm cha, vừa làm mẹ, trở thành điểm tựa tinh thần vững vàng cho các con vượt qua biến cố. Sau này, dù có nhiều người khuyên nên xây dựng gia đình mới, nhưng cụ vẫn một lòng thủy chung với người vợ đã khuất, dành trọn tình yêu thương cho các con.
Tấm gương mẫu mực của cụ đã lan tỏa sang thế hệ kế tiếp. Các con, cháu cụ luôn giữ gìn và nối tiếp truyền thống ấy. Có người cậu đã nhường từng đồng lương ít ỏi để hỗ trợ chị gái lo cho các cháu học hành thành tài, một nghĩa cử thấm đẫm tình thân, tiếp nối mạch nguồn mà cụ đã dày công vun đắp.
Đến hôm nay, 7 người con và 25 người cháu nội, ngoại của cụ vẫn gắn bó bên nhau, kết nối bởi ngọn lửa nghĩa tình luôn rực sáng. Một nếp nhà vững chãi được dựng xây không chỉ bằng bàn tay, mà bằng cả trái tim, từ tình yêu thương, sự hy sinh đến tinh thần trách nhiệm - những giá trị gia phong đã được cụ gìn giữ, trao truyền qua từng thế hệ.