Người viết mật thư 'tàng hình' của biệt động Sài Gòn
Là biệt động Sài Gòn, có mặt trong thời khắc khốc liệt nhất của chiến tranh, nhưng bà Nguyễn Thị Phương không kể về trận đánh hay thời khắc sinh tử của một người lính, bà kể về những cánh thư 'tàng hình' được viết trên giấy gói hàng, bằng thứ nước mực thần kỳ, mang mệnh lệnh sống còn cho lực lượng cách mạng...
Mật thư “tàng hình”
Trong căn nhà nhỏ trên đường Hoàng Văn Thụ (phường Tân Sơn Nhất, TP Hồ Chí Minh), nữ biệt động Nguyễn Thị Phương (73 tuổi) vẫn đang lưu giữ những hiện vật gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Nhắc đến ký ức chiến tranh, bà Phương lấy cây bút cũ trong chiếc hộp úa màu, lướt đi vài đường trên giấy nhưng không để lại vệt mực nào.
Trước con mắt ngạc nhiên của mọi người, bà dùng cây cọ thấm vào “nước mở mực”, rồi chậm rãi miết lên bề mặt giấy, từng dòng chữ dần hiện ra như một phép màu. Chỉ bằng những thao tác cơ bản, bà Phương đã phác họa được bức chân dung về một nữ chiến sĩ biệt động Sài Gòn, với nhiệm vụ viết mật thư “tàng hình”.

Bà Nguyễn Thị Phương mô tả lại công việc đánh máy, viết mật thư trong thời gian hoạt động cách mạng.
Bà Nguyễn Thị Phương quê ở Nam Định, sinh ra và lớn lên tại Campuchia trong gia đình truyền thống cách mạng, có bà ngoại là Trần Thị Công, mẹ Việt Nam anh hùng có ba người con hy sinh và một người là thương binh.
Giai đoạn 1965-1968, phong trào yêu nước rộ lên trong cộng đồng người Việt tại Campuchia. Già trẻ, gái trai đều một lòng muốn trở về góp sức để thống nhất non sông. Năm 1967, khi vừa tròn 15 tuổi, Nguyễn Thị Phương và chị gái đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, trở về Việt Nam và được Quân khu Sài Gòn - Gia Định tiếp nhận, được phân công làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, đạn dược, chuẩn bị cho chiến dịch Mậu Thân 1968.
Những ngày tháng cận kề chiến dịch Mậu Thân 1968, khi bóng tối vừa ôm lấy con đường mòn, nữ biệt động Nguyễn Thị Phương cùng đồng đội lại lên đường mang vác đạn và vũ khí vượt qua cung đường nguy hiểm từ Long An xuống Bình Chánh, Sài Gòn. Những tháng ngày ấy tuy vất vả, gian lao nhưng luôn rạo rực niềm tin và khát vọng hòa bình.
Bà Phương nhớ lại: “Chúng tôi đều ở độ tuổi trăng rằm, vác trên vai hàng chục ký vũ khí, súng đạn, có lúc băng qua kênh rạch, đỉa đeo đầy chân. Có lần bất ngờ bị trúng quả pháo của địch ném, nhiều người hy sinh tại chỗ, những người còn lại cũng đầy thương tích. Hết tải vũ khí bằng đường bộ, tôi lại vận chuyển vũ khí công khai bằng xuồng theo các con sông, rồi làm giao liên, y tá…”.
Sau năm 1968, bà Nguyễn Thị Phương được điều về văn phòng của Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định và được đào tạo đánh máy chữ.
Trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt, khi Sài Gòn là trung tâm đầu não của địch và chiến trường miền Nam rực lửa khói bom, địch thường xuyên bố ráp, bắt bớ các lực lượng đối kháng. Khi mọi cách thức liên lạc còn thô sơ thì việc vận chuyển tài liệu mật ra vào nội thành Sài Gòn luôn là thách thức cam go đối với các giao liên, biệt động.
Trước tình hình này, các kỹ thuật viên điệp báo, điện đài đã chế ra một loại mực có khả năng tàng hình, đảm bảo độ bí mật cao. Trước khi có loại mực này, quân ta thường sử dụng nước cơm để viết mật thư. Tuy nhiên, phương pháp này dễ bị phát hiện, ảnh hưởng đến sự sống còn của giao liên, đồng thời có nguy cơ lộ kế hoạch tác chiến.

Bà Nguyễn Thị Phương hội ngộ “ông quận trưởng Dũng râu” tại bảo tàng Biệt động Sài Gòn.
Đồng chí Trần Hải Phụng (Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định, sau hòa bình là Thiếu tướng, Phó Tư lệnh Quân khu 7) đã tin tưởng giao nhiệm vụ viết chữ không hiện hình và công thức để làm ra thứ nước “mở chữ” cho thư ký đánh máy của mình là Nguyễn Thị Phương.
Mọi công tác diễn ra một cách bí mật, cẩn trọng. Những bức mật thư được viết bằng một loại mực đặc biệt. Khi viết xong, tờ giấy vẫn trắng tinh, không tì vết. Chỉ khi người nhận dùng một loại dung dịch gọi là “nước mở mực” bôi lên, thì chữ mới hiện ra.
Tiến hành nhiệm vụ, bà Phương được ông “quận trưởng Dũng râu” (chiến sĩ Biệt động Thành) làm cho một tấm thẻ căn cước giả để có thể đi ra ngoài hợp pháp mua nguyên liệu về chế tạo nên những thứ nước đặc biệt, cũng như giao liên bằng thư từ cho các cơ sở hoạt động trong nội thành.
“Vũ khí” để tạo ra những bức thư tàng hình được bà Phương ngụy trang bằng những cách đơn giản, thô sơ: “Tôi lựa chọn chất liệu viết thường là giấy dầu, loại giấy phổ biến dùng để gói hàng, còn mực là một loại nước trong suốt, đựng trong những chiếc lọ nhựa cũ kỹ. Khi bị địch phát hiện, chúng lục soát thì cũng không thể biết những thứ tôi mang theo trong người là dụng cụ viết mật lệnh”, bà Phương kể.
Là người thông minh, nhanh nhẹn, tất cả những thông tin cần viết vào thư của cấp trên truyền đạt xuống, bà Phương nắm bắt rất nhanh, ghi nhớ sâu trong đầu. Đêm đêm, bà lặng lẽ xuống hầm, cặm cụi viết dưới ánh đèn dầu leo lét. Vì viết lên giấy chữ không hiện hình, nên khi viết phải tập trung cao độ để các con chữ không chồng lên nhau.
“Tôi xem những con chữ như những giọt máu của mình, viết cẩn thật để cho người nhận dễ đọc, dễ hiểu nhất. Khi hoàn thành xong một lá thư, tôi bước lên hầm nhìn vào trong gương thấy mặt mũi, đầu tóc của mình lấm lem bụi dầu, bụi than”, bà Phương tâm sự về những đêm cặm cụi viết mật thư dưới hầm tối.
Bí mật “nước giấu mực, nước mở mực”
Những bức mật thư đến được tay người nhận phải đi qua bom đạn, dưới họng súng và áp lực sinh tử của cuộc chiến. Biệt động Sài Gòn là lực lượng đặc thù và tinh nhuệ, đặc biệt trong những nhiệm vụ trọng yếu, tối mật liên quan đến chỉ đạo từ cấp trên thì đòi hỏi biệt động thành phải là người ưu tú, xuất sắc về mọi mặt: “Nhiệm vụ gì cấp trên yêu cầu tôi đều phải giỏi, phải biết, phải làm. Cá nhân tôi vừa học vừa làm hết khoảng 7 nhiệm vụ: đánh máy, viết bạch (viết mật thư), y tá, chị nuôi, thu tín hiệu, vận chuyển vũ khí bằng xuồng hai đáy…”, nữ biệt động Nguyễn Thị Phương chia sẻ.
Năm 1970, trong một trận càn, địch phát hiện ra bộ chỉ huy đóng ở ấp Phước Lý (Mỏ Cày - Bến Tre) và nữ biệt động Nguyễn Thị Phương bị bắt ngay trong trận càn này. Lúc này, nữ biệt động vừa tròn 18 tuổi, bị địch đánh đập, tra tấn dã man.
Cho đến bây giờ, khi kể lại thời khắc khó khăn ấy, đôi mắt bà ngấn lệ, giọng nói nghẹn ngào: “Khi đó, bản thân tôi chưa hiểu “khí tiết” cách mạng mà người ta hay nhắc đến là gì, chỉ biết rằng đất nước quan trọng, còn đồng đội, chỉ huy là cha chú, anh em của mình, không thể để họ có chuyện. Sau khi địch đánh đập, tra tấn dã man nhưng không lấy được bất cứ một thông tin nào, chúng đã thả tôi ra”.

Những dụng cụ viết mật thư “tàng hình” của nữ biệt động hiện đang lưu trữ tại bảo tàng Biệt động Sài Gòn.
Năm 1971, sau nhiều nhiệm vụ khác nhau, bà Nguyễn Thị Phương về hoạt động ở Bộ chỉ huy Quân khu Sài Gòn - Gia Định tại căn cứ đóng ở Củ Chi. Nhiệm vụ của bà vẫn là viết mật thư “tàng hình” để các đồng chí giao liên đưa các nghị quyết, chỉ đạo của Bộ chỉ huy đến các cơ sở trong nội đô, góp phần vào đại thắng mùa xuân năm 1975 của toàn dân tộc.
Giải phóng Sài Gòn, đêm 30/4/1975, bà Phương có mặt ở trung tâm thành phố, vỡ òa trước cảnh đèn đuốc rực rỡ, cờ bay phấp phới cùng tiếng nói cười rộn rã. Ngày thống nhất đất nước, bà Phương mới tròn 23 tuổi. Lúc này, bà mới thoát ra khỏi nhiệm vụ và đi tìm lại gia đình mình.
“Tôi và chị ruột gặp lại ba má và mấy đứa em mà mừng mừng, tủi tủi. Ba má đưa chúng tôi đi giới thiệu với họ hàng, bởi khi tôi và chị tham gia chiến đấu thì phải bảo toàn mọi thông tin, xem như chúng tôi không có ở trong nhà”, bà Phương xúc động hồi tưởng lại ngày đoạn tụ gia đình sau chiến tranh.
Đất nước hòa bình, bà Nguyễn Thị Phương chuyển từ quân đội sang công tác tại Bộ Vật tư (nay là Bộ Công thương) và sống cuộc đời bình dị bên gia đình.
Dù chiến tranh đã lùi xa nửa thế kỷ, nhưng công thức chế tạo “nước giấu mực” và “nước mở mực” vẫn khắc sâu trong trí nhớ của bà Phương. Hiện tại, hai loại nước đặc biệt này đang được lưu giữ ở Bảo tàng Biệt động Sài Gòn.
Công thức chế tạo ra hai thứ nước này không phải chỉ một mình bà Phương biết. Song, có lẽ đã quen với sự lặng lẽ, kín đáo khi thực hiện các công tác bí mật của Biệt động Sài Gòn, nên bao năm qua, bà cũng như những đồng đội khác đều không hé lời về cách chế tạo “nước giấu mực” và “nước mở mực”.
“Biệt động Sài Gòn là một khối mạnh mẽ, gan dạ, đa mưu túc trí và mỗi bộ phận đều có chức năng và nhiệm vụ riêng, là một phần không thể thiếu. Tôi chỉ là một mắt xích nhỏ trong guồng máy ấy và tôi tự hào vì đã góp phần vào sự thành công chung, dẫn đến ngày toàn thắng của cách mạng, non sông nối liền một dải”, nữ biệt động Nguyễn Thị Phương tâm sự.












