Nguyên nhân âm thầm gây tử vong số một ở người Việt
Các bệnh mạn tính đang đè nặng lên sức khỏe cộng đồng, ngân sách y tế và sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Các chuyên gia cảnh báo cần thay đổi cách quản lý, dự phòng và điều trị căn cơ hơn.

Nhóm bệnh mạn tính hiện là thách thức lớn đối với hệ thống y tế Việt Nam, không chỉ gây tử vong cao mà còn làm gia tăng chi phí điều trị và nhu cầu chăm sóc dài hạn. Ảnh: Quỳnh Trang.
Tại Hội nghị Khoa học Quốc tế năm 2025 do Bệnh viện Lê Văn Thịnh phối hợp Trường Đại học Hồng Bàng tổ chức ngày 25/10, GS.TS Nguyễn Trung Kiên, Hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược Cần Thơ, cho hay bệnh mạn tính là thách thức y tế nghiêm trọng nhất của thế kỷ 21, ảnh hưởng không chỉ đến sức khỏe cộng đồng mà còn tới sự bền vững của nền kinh tế toàn cầu.
TheoTổ chức Y tế Thế giới (WHO), bốn nhóm bệnh chính gồm tim mạch, ung thư, bệnh hô hấp và đái tháo đường hiện chiếm tới 80% số ca tử vong do các bệnh không lây nhiễm. Trong đó, bệnh tim mạch vẫn là nguyên nhân hàng đầu, tiếp đến là ung thư, bệnh phổi mạn tính và tiểu đường.
Việt Nam nằm trong nhóm chịu ảnh hưởng nặng nề
Thực trạng này không chỉ diễn ra ở các nước phát triển mà lan rộng khắp các quốc gia có thu nhập trung bình, trong đó có Việt Nam. Theo số liệu Bộ Y tế, mỗi năm nước ta ghi nhận khoảng 592.000 ca tử vong và 84,4% trong số đó là do bệnh mạn tính.
Bốn nhóm bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất gồm tim mạch (25%), ung thư (13%), đái tháo đường (4%) và bệnh hô hấp mạn tính (4%). Nghĩa là, cứ hai người tử vong thì có ít nhất một người ra đi vì bệnh không lây nhiễm.
Theo bác sĩ Kiên, không chỉ làm tăng tỷ lệ tử vong, các bệnh mạn tính còn ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng sống của người dân. Khoảng 20% dân số Việt Nam mắc tăng huyết áp, 15% rối loạn mỡ máu và gần 7% có tình trạng tăng đường huyết hoặc đái tháo đường.
"Tỷ lệ này có xu hướng tăng ở nhóm trung niên và người trẻ do lối sống ít vận động, ăn uống kém lành mạnh, stress kéo dài", GS.TS Nguyễn Trung Kiên nói.

Nhiều người đang phải đối mặt với bệnh lý mạn tính như tim mạch, chuyển hóa, thận. Ảnh: Đinh Hà.
Trên phạm vi thế giới, gánh nặng kinh tế do bệnh mạn gây ra đang ở mức báo động. Giai đoạn 2021-2025, các bệnh này được ước tính gây thiệt hại khoảng 7.000 tỷ USD, tương đương 500 tỷ USD mỗi năm, chủ yếu do chi phí điều trị kéo dài và mất năng suất lao động.
Tại Việt Nam, chi phí y tế trung bình của bệnh nhân mạn tính tăng thêm gần 20 USD mỗi năm. Viện phí và chi phí cấp cứu cao gấp 5 lần, trong khi tỷ lệ nhập viện nhiều gấp 3 lần so với người không mắc bệnh.
Một ví dụ điển hình là bệnh thận mạn giai đoạn cuối, chi phí điều trị thay thế lên tới 9.000 USD mỗi năm cho một bệnh nhân. Với thu nhập trung bình của người Việt, đây là khoản chi khổng lồ, dễ đẩy nhiều gia đình vào cảnh kiệt quệ nếu không có bảo hiểm y tế hoặc hỗ trợ từ Nhà nước.
GS Kiên nhận định bệnh mạn tính không đơn thuần là câu chuyện y học, mà là vấn đề xã hội và phát triển bền vững. Nó làm giảm năng suất lao động, kéo dài thời gian nghỉ ốm, khiến người bệnh phụ thuộc thuốc suốt đời và gây áp lực cho hệ thống y tế.
"Mỗi bệnh nhân mạn tính là một thách thức quản lý lâu dài. Nếu không có biện pháp dự phòng và quản lý hiệu quả, ngân sách y tế sẽ bị bào mòn, trong khi bất bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh ngày càng trầm trọng", GS Kiên cảnh báo.
Hướng đi mới trong kiểm soát bệnh mạn tính
Để đối phó với gánh nặng này, nghiên cứu khoa học được xem là trung tâm của mọi giải pháp. Theo GS Kiên, lịch sử y học đã trải qua 5 giai đoạn, từ y học tâm linh và kinh nghiệm dân gian đến y học thực nghiệm và hiện nay bước sang y học dựa trên bằng chứng.
Tương lai gần, xu hướng chủ đạo sẽ là y học chính xác, điều trị cá thể hóa dựa trên dữ liệu di truyền và đặc điểm sinh học của từng người. Mỗi quyết định điều trị không chỉ dựa trên kinh nghiệm bác sĩ, mà phải dựa trên dữ liệu kiểm chứng khoa học.
Tại Việt Nam, hoạt động nghiên cứu khoa học đã trở thành tiêu chí quan trọng trong đánh giá chất lượng bệnh viện. Nhiều cơ sở y tế đang nỗ lực xây dựng mô hình nghiên cứu lâm sàng kết hợp dữ liệu đời thực nhằm nâng cao hiệu quả điều trị.
Các nghiên cứu quốc tế gần đây cũng mang lại bước tiến lớn trong điều trị bệnh mạn tính. Nhóm thuốc ức chế SGLT2, điển hình là dapagliflozin, được xem như “statin của thế kỷ 21” nhờ hiệu quả cao trong điều trị bệnh tim mạch và tiểu đường.

Chất ức chế SGLT2 giúp điều trị hiệu quả bệnh tim mạch và tiểu đường. Ảnh: Shutterstock.
Hai nghiên cứu quy mô lớn DAPA-HF và DECLARE-TIMI 58, thực hiện trên hàng chục nghìn bệnh nhân, cho thấy thuốc này giảm 2,7% nguy cơ nhập viện do suy tim và giảm 47% biến chứng thận. Khi áp dụng vào dữ liệu thực tế, nhóm bệnh nhân dùng thuốc SGLT2 giảm 37% biến cố tim mạch và thận so với nhóm sử dụng thuốc DPP-4.
"Những bằng chứng mạnh mẽ này đã khiến hướng dẫn điều trị tim mạch và đái tháo đường toàn cầu được cập nhật, khẳng định vai trò trung tâm của nghiên cứu trong việc thay đổi thực hành lâm sàng", GS Kiên cho hay.
Theo GS Kiên, Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi từ điều trị đơn lẻ sang quản lý tổng thể bệnh mạn tính, dựa trên bằng chứng khoa học và dữ liệu thực tế.
Việc tích hợp nghiên cứu lâm sàng, dữ liệu đời thực và y học chính xác sẽ giúp hệ thống y tế cá thể hóa điều trị, giảm tái nhập viện, tiết kiệm chi phí và cải thiện chất lượng sống cho người bệnh.
GS Kiên nhấn mạnh nếu không có chiến lược kiểm soát bền vững, gánh nặng bệnh tật sẽ tiếp tục gia tăng, kéo theo chi phí y tế khổng lồ và suy giảm chất lượng sống của hàng triệu người dân.
Phát biểu tại hội nghị, bác sĩ chuyên khoa II Trần Văn Khanh, Giám đốc Bệnh viện Lê Văn Thịnh, cho biết trong nhiều năm qua, bệnh viện luôn nỗ lực đổi mới, tiên phong ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng mô hình bệnh viện không giấy tờ, hướng tới người bệnh được số hóa toàn diện.
Bác sĩ Khanh cho rằng hội nhập quốc tế trong nghiên cứu và quản lý bệnh mạn tính sẽ giúp Việt Nam rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển, hướng đến một hệ thống y tế hiện đại, nhân văn và bền vững hơn.














