Nhà sống, nhà chết của người Churu

Đồng bào Churu sinh sống ở vùng giáp ranh giữa 3 tỉnh Lâm Đồng, Ninh Thuận và Bình Thuận có một quan niệm về nhà khá thú vị: nhà sống và nhà chết!...

Chiều bảng lảng, buôn làng vùng xa như chùng xuống. Cơn mưa đầu mùa chóng vánh ngang qua. Vùng giáp ranh ngút ngàn màu xanh của cà phê, hoa màu và thăm thẳm những cánh rừng già. Bà Ma Then (SN 1961, thôn Ma Am, xã Đà Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng) ngồi thu mình bên thềm nhà sàn, bốn vách gỗ đã bạc phếch vì dãi dầu nắng mưa. Kế đó là căn nhà xây kiên cố bạc tỉ, to đẹp nhất vùng, làm cách đây trên dưới chục năm.

Vợ chồng bà Ma Then thích ở trong căn nhà gỗ truyền thống của dân tộc mình hơn. Đó là căn nhà được làm từ cuối những năm 1980, không nhỏ cũng chẳng lớn. Nhà gỗ có kiến trúc hình chữ L, bằng chất liệu gỗ sao. Trước đây, nhà truyền thống của đồng bào Churu đều được lợp bằng lá cỏ tranh. Sau nhiều lần thay mái, bà con chuyển sang lợp tôn. Thời gian vốn là kẻ thù của sự hủy hoại. Chất liệu gỗ bị nắng gió, thời gian dãi dầu bào mòn, bạc phếch. Mái nhà gỉ sét, nổi lên màu hoen ố, rêu cổ.

Một căn nhà sống của đồng bào Churu ở xã Đà Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

Một căn nhà sống của đồng bào Churu ở xã Đà Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

Một điều khá thú vị, khi đã có được nhà xây kiên cố, đồng bào Churu cũng như nhiều dân tộc thiểu số khác trên vùng đất Tây Nguyên thường không tháo dỡ, phá bỏ nhà gỗ truyền thống. Họ vẫn để sử dụng song hành cùng nhà xây khang trang. Khi căn nhà hư hỏng, dột nát, bà con chuyển sang làm kho chứa nông sản, máy móc nông nghiệp. Sứ mệnh nhà truyền thống chỉ dừng lại khi tự sập đổ. Khó khăn đến đâu, đồng bào Churu cũng không tháo bán nhà gỗ truyền thống, dù rằng họ đã có căn nhà xây kiên cố bên cạnh.

Người Churu lý giải: Có hai loại nhà, đó là nhà sống và nhà chết. Vợ chồng bà Ma Then thích ở trong căn nhà sống, mặc cho căn nhà đã bị thời gian bào mòn. Đôi khi, căn nhà chỉ còn chức năng che nắng, khó tránh khỏi mưa, càng không ngăn được những cơn gió lạnh. Đồng bào Churu hiểu đơn giản là, nhà sống "biết đi". Nhà chết, tất nhiên chỉ "biết đứng" một chỗ. Nhà sống là loại nhà gỗ, tháo ra, lắp vào. Nhà này có thể di dời tới những nơi ở mới, phù hợp với chuyển đổi chỗ ở, lối sống du canh du cư của bà con trước đây. Nhà chết là nhà xây, khỏi phải nói nhiều, loại nhà này "đặt đâu" chỉ biết nằm đó, tất nhiên không "biết đi" như nhà sống. Vì thế, bà con gọi đó là nhà chết.

Khi tìm hiểu về kiến trúc nhà ở của người Churu, chúng tôi nhận thấy có nét tương đồng với nhà ở truyền thống của người Chăm, sinh sống ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Xét về khoảng cách địa lý, người Churu ở Lâm Đồng cách nơi sinh sống tập trung của người Chăm không xa, chỉ vài chục cây số, thậm chí có nơi chỉ vài cây. Hơn nữa, tiếng nói của người Churu gần giống với tiếng của người Chăm. Khi nói, họ có thể hiểu được nhau.

Điều này phù hợp với lý giải của một số nhà nghiên cứu, rằng người Churu ở Lâm Đồng có nguồn gốc, hoặc rất gần gũi với người Chăm ở vùng duyên hải Nam Trung bộ. Khoảng đầu thế kỷ 18, khi vua Chăm suy yếu, các thế lực khác ở phía Bắc trỗi dậy đánh chiếm. Vua chúa và đoàn tùy tùng cùng một bộ phận cư dân trung thành đã chạy ngược lên dải đất cao phía Tây. Đây vốn là vùng đất người Chăm thường xuyên qua lại, buôn bán hàng hóa dưới dạng trao đổi hiện vật với các dân tộc thiểu số khác như K'ho, Mạ, Êđê, M'Nông…

Khi vua Chăm và đoàn người chạy giặc ngược lên Tây Nguyên, họ đã được các dân tộc bản địa che chở, cung cấp lương thực, có những nhóm người xin ở lại đây để sinh sống. Một bộ phận khác tiếp tục di chuyển ngược lên phía Bắc và qua đất Campuchia. Để thể hiện tấm lòng với người dân bản địa, vua chúa Chăm đã tặng cho cư dân địa phương một số hiện vật, trong đó có đồ trang sức bằng vàng, đồng, gốm sứ, vải lụa…

Vì thế, vùng giáp ranh giữa Lâm Đồng, Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay có 3 địa điểm chứa bảo vật của các vua Chăm. Đó là làng Lơbui, đền Krayo và đền Sópmadronhay. Trải qua hàng trăm năm, các địa điểm này đã hư hỏng, người dân địa phương đã xây mới hoặc di chuyển qua nhiều vị trí khác nhau. Cơ quan chức năng cũng di dời một số hiện vật từ những địa điểm này về Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng để trưng bày.

Ở Tây Nguyên (Đắk Lắk, Gia Lai và Lâm Đồng) ngày nay, vẫn còn một số đền tháp do người Chăm xây dựng. Điều này củng cố luận cứ của các nhà nghiên cứu, cho rằng khi chạy lên Tây Nguyên, vua chúa Chăm đã cho xây dựng một số đền tháp ở đây. Sức ảnh hưởng của văn hóa Chăm ở Tây Nguyên không lớn nhưng những di tích, hiện vật được tìm thấy càng củng cố có một nền văn hóa Chăm, cách đây hàng trăm năm từng hiện diện trên miền đất này.

Ông Ya Phú (SN 1931, thôn Ma Am, xã Đà Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng) nói về nhà sống, nhà chết của dân tộc mình.

Ông Ya Phú (SN 1931, thôn Ma Am, xã Đà Loan, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng) nói về nhà sống, nhà chết của dân tộc mình.

Trước bà Ma Then, có lẽ các thế hệ người Churu chưa bao giờ sinh sống trong nhà chết. Tất nhiên, đâu có nhà chết để sống. Người ta chỉ có nhà chết khi cuộc sống không còn cảnh nay đây mai đó, du canh, du cư trong rừng sâu. Kiến trúc nhà sống của người Churu ở huyện Đơn Dương và Đức Trọng (Lâm Đồng), nơi giáp ranh với tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận cũng tương đối giống nhà gỗ truyền thống của dân tộc K'ho cư ngụ ở phía Bắc tỉnh Lâm Đồng. Tất cả đều được làm bằng chất liệu gỗ rừng tự nhiên, được khai thác trong vùng. Đó có thể là gỗ thông, gỗ sao, dầu… với diện tích vừa phải, không quá nhỏ cũng chẳng quá lớn. Mỗi căn nhà sống rộng khoảng 70m2.

Sự khác biệt rõ ràng nhất giữa nhà gỗ truyền thống của người K'ho và nhà sống của đồng bào Churu chính là gác. Hầu hết nhà gỗ của người K'ho đều có gác dưới dạng tầng và có ban công hướng ra khoảng sân rộng phía trước. Nhà sống của đồng bào Churu thường không có gác. Nếu là gia đình khá giả, gia chủ sẽ làm dưới dạng kiến trúc nhà sàn. Sàn cách mặt đất chỉ khoảng 1m. Các họa tiết trang trí trên nhà sống của người Churu là những hình thù thô sơ, chạm khắc thủ công trực tiếp vào gỗ, trông tương đối đơn giản.

Phần lớn nhà gỗ truyền thống của đồng bào Churu còn sử dụng được đến ngày nay đều làm sau năm 1975. Giờ đây, trước sự khan hiếm về chất liệu, tốn kém về công sức, tiền bạc, chỉ những gia đình giàu có người Churu mới đủ điều kiện để làm nhà sống. Bạn tôi, K'Kéo, ngụ thôn Đà Thành, xã Đà Loan, huyện Đức Trọng là một trong số ít người ở địa phương mới làm xong căn nhà sống như thế.

Ngoài các giá trị về mặt tinh thần, nhà sống của đồng bào Churu là biểu tượng của sự giàu có và quyền uy của một gia đình, dòng họ hay cả buôn làng. Căn nhà là nơi cất giữ các vật quý hiếm, thiêng liêng nhất mà người Churu sở hữu, như chiêng, ché, các chiến lợi phẩm của các chiến binh sau những chuyến đi săn (đầu bò rừng, đầu sơn dương, sừng hươu, nai...), những công cụ sản xuất hay vật dụng để hiến tế thần linh trong các dịp lễ hội. Nhà sống gắn bó với người Churu không chỉ trong đời sống hằng ngày. Trong quá khứ, muốn đánh giá sự giàu có của ai đó, bà con thường bắt đầu bằng việc mô tả nhà sống mà người giàu đang sở hữu gắn liền với chiêng ché, gia súc, đầy tớ và những vật thiêng.

Người Churu và các dân tộc thiểu số khác sinh sống ở Tây Nguyên vẫn tin rằng, chính các vị thần đã dạy họ cách làm nhà. Tùy vào quan niệm của mỗi dân tộc, ngoài nhà truyền thống để ở, bà con còn dựng nhà để chứa lúa, nhà tế thần, nhà cho người phụ nữ khi sinh... Mỗi căn nhà đều có một vị thần riêng cai quản và chăm sóc. Nhà có thịnh vượng hay không một phần phụ thuộc vào thiện chí của gia chủ đối với các nghi thức cúng tế Yàng (thần).

Có thể, đây cũng là nguyên nhân khiến một số dân tộc không bao giờ tự ý phá bỏ hoặc dỡ bán nhà gỗ truyền thống mặc dù ngày nay không còn nhu cầu sử dụng khi đã xây dựng được nhà mới với kết cấu bê tông cốt thép khang trang, vững chãi hơn.

Với người Churu, nhà sống truyền thống không đơn thuần là nơi trú ngụ, tránh mưa, che nắng. Hơn thế, căn nhà chính là nơi các vị thần linh sinh sống, nơi khởi nguồn của giống nòi sinh sôi nảy nở, cộng đồng phồn thịnh.

Theo điều tra dân số năm 2019, người Churu có 23.242 người, trong đó nam là 11.363 người, còn lại là nữ. Tiếng nói của người Churu thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô-Polynêxia (ngữ hệ Nam Ðảo), gần với tiếng Chăm. Có một bộ phận người Churu sống gần với người K'ho nên nói tiếng K'ho (thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me).

Khắc Lịch

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/ly-luan/nha-song-nha-chet-cua-nguoi-churu-i771509/