Nhà thơ, liệt sỹ, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Anh Xuân

Nhà thơ, liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Lê Anh Xuân tên thật là Ca Lê Hiến, sinh ngày 5/6/1940 tại thị xã Bến Tre (nguyên quán ở xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre).

Nhà thơ Lê Anh Xuân (trái) và nhà văn Anh Đức ở căn cứ Ban Tuyên huấn Trung ương cục miền Nam - Nguồn: sưu tầm

Năm 1964, từ chối xuất đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài, ông xung phong nhập ngũ, rồi vượt Trường Sơn trở lại miền Nam chiến đấu. Ngày 24/5/1968 ông đã hy sinh tại huyện Cần Đước, tỉnh Long An, khi vừa tròn 28 tuổi đời. Sự nghiệp sáng tác văn thơ của ông tuy không nhiều về số lượng tác phẩm, nhưng đã để lại cho độc giả bao thế hệ nhiều ấn tượng với những sáng tác mang đậm tính nhân văn sâu sắc về hình ảnh đất nước và con người Việt Nam rất kiên cường, anh dũng trong cuộc chiến khốc liệt,đầy đau thương hy sinh mất mát đã lùi vào quá khứ gần 40 năm qua.Trong đó, bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” như một tượng đài bi tráng được tạc bằng ngôn ngữ thi ca trong thế kỷ 20.

Xuất thân trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu văn học nghệ thuật, ông đã sớm bộc lộ năng khiếu về sáng tạo thi ca. Ngay từ khi còn là sinh viên, bài thơ đầu tiên “Nhớ mưa quê hương” với những cảm xúc đầy hoài niệm về quê hương xứ dừa Bến Tre của ông đã nhận được sự đồng cảm chia sẻ của đông đảo bạn đọc.

Bài thơ được giải Nhì trong một cuộc thi thơ do tạp chí Văn nghệ tổ chức vào năm 1960 đã thực sự khích lệ ông tự tin hơn để dấn thân vào nghiệp thi ca.

“Nhớ mưa quê hương” với những câu thơ giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, giàu chất trữ tình và trĩu nặng sự hoài niệm tuổi thơ với xứ dừa quê nội ấy đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả bao thế hệ.

“Ôi cơn mưa quê hương

Đã ru hát hồn ta thuở bé

Đã thấm nặng lòng ta những tình yêu chớm hé

Nghe tiếng mưa rơi trên tàu chuối, bẹ dừa

Thấy mặt trời lên khi tạnh những cơn mưa

Ta yêu quá như lần đầu mới biết

Ta yêu mưa như yêu gì thân thiết

Như tre, dừa như làng xóm quê hương

Như những con người biết mấy yêu thương”.

Ông đã có một tuổi thơ ở quê nội thật hồn nhiên, thật đẹp đẽ, êm đềm với những tháng ngày “tung tăng” dầm trong cơn mưa đùa nghịch cùng bạn bè trên mặt nước, mặt sông

“Tuổi thơ ta dầm mưa ta tắm

Ta lội tung tăng trên mặt nước, mặt sông

Ta lặn xuống nghe vọng xa tiếng sấm

Nghe mưa rơi tiếng ấm, tiếng trong

Ôi đâu rồi những trò chơi tuổi trẻ…”.

Và từ những hoài niệm về tuổi thơ dầm tắm trong cơn mưa quê hương, những cảm xúc của ông cứ lan tỏa cứ dào dạt rồi như vỡ òa “rung động’ cả “trăm sông” cả “bể rộng”

“Mưa chảy xuống dòng sông quê nội

Sóng nước quê hương dào dạt chảy về khơi

Chở những kỷ niệm xưa chìm lắng bốn phương trời

Và ta lớn tình yêu hòa bể rộng

Cơn mưa nhỏ quê hương ta đã sống

Nay vỗ lòng ta rung động cả trăm sông”.

Đọc lại những câu thơ ấy, chúng ta càng thấu hiểu thêm vì sao ông lại đau đáu, trăn trở, khắc khoải, khao khát được trở về quê hương trực tiếp cầm súng chiến đấu cùng những bạn bè đồng chí

“Ôi ta thèm được cầm khẩu súng

Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè

Nằm chờ giặc trên quê hương anh dũng

Ta say nồng mùi lá rụng bờ tre “

Những năm tháng vừa cầm súng chiến đấu, vừa cầm bút sáng tác ông làm việc ở Tiểu ban Giáo dục, thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương cục miền Nam và sau đó là Hội Văn nghệ Giải phóng.

Đây là thời kỳ ông thực sự cọ sát với hiện thực cuộc chiến tranh đầy cam go quyết liệt, nhưng cũng đầy khí phách anh dũng hào hùng của dân tộc, nên tính tư tưởng trong thơ ông được nâng lên một tầm cao mới. Thơ ông giai đoạn này, không còn là những ưu tư hoài niệm trữ tình lãng mạn như thời “Nhớ mưa quê hương” nữa, mà đã hằn sâu dấu ấn một hiện thực khốc liệt hơn của cuộc chiến với sự sống và cái chết của những người lính trận chỉ trong gang tấc. “Trở về quê nội” lần này lòng ông quặn đau khi tận mắt chứng kiến: “Làng ta mấy lần bom giội nát/ Dừa ngã ngổn ngang, xơ xác bờ tre”.

Nhiều nhà lý luận phê bình văn học nhận xét, ông là người ghi chép lại lịch sử bằng thơ. Đó là lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, được ông phản ánh qua những câu thơ thật sinh động

Bài thơ “Dáng đứng Việt Nam”, một trong những thi phẩm tiêu biểu của ông được đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường phổ thông, đã được thăng hoa sáng tạo từ hiện thực người chiến sĩ Giải phóng quân ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 (đợt 1).

“Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất/ Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng/ Và anh chết trong khi đang đứng bắn/ Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”.

Khoảnh khắc hy sinh của người chiến sĩ Giải phóng quân không tên, “không một tấm hình, không một dòng địa chỉ” ấy thật bi tráng, nó đã tạc vào thế kỷ một “dáng đứng Việt Nam” “như bức thành đồng”. “Anh tên gì hỡi Anh yêu quý/ Anh vẫn lặng im như bức thành đồng/ Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ/ Mà vẫn một màu bình dị sáng trong/ Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ/Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường/ Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ/Anh là chiến sĩ Giải phóng quân/ Tên Anh đã thành tên đất nước”.

Bài thơ : TRỞ VỀ QUÊ NỘI ( Lê Anh Xuân )

Ôi quê hương xanh biếc bóng dừa

Có ngờ đâu hôm nay ta trở lại

Quê hương ta tất cả vẫn còn đây

Dù người thân đã ngã xuống đất này

Ta lại gặp những mặt người ta yêu biết mấy

Ta nhìn ta, ta ngắm, ta say

Ta run run nắm những bàn tay

Thương nhớ dồn trong tay ta nóng bỏng.

Đây rồi đoạn đường xưa

Nơi ta vẫn thường đi trong mộng

Kẽo kẹt nhà ai tiếng võng trưa

Ầu ơ... thương nhớ lắm

Ơi nhũng bông trang trắng, những bông trang hồng.

Như tấm lòng em trong trắng thủy chung

Như trái tim em đẹp màu đỏ thắm

Con sông nhỏ tuổi thơ ta đã tắm

Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng

Hoa lục bình tím cả bờ sông.

Mẹ lưng còng tóc bạc

Ngậm ngùi kể chuyện ta nghe

Tám em bé chết vì bom xăng đặc

Trên đường đi học trở về.

Giặc giết mười người trong một ấp

Bà con khiêng xác chất đầy ghe

Chở lên Bến Tre đấu tranh với giặc

Làng ta mấy lần bom giội nát

Dừa ngã ngổn ngang, xơ xác bờ tre,

Mẹ dựng tạm mái lêu che mưa che gió.

Ta có ngờ đâu mái lều của mẹ

Dưới lớp đất kia ngọn lửa vẫn còn

Mẹ ta tần tảo sớm hôm

Nuôi các anh ta dười hầm bí mật

Cả đời mẹ hy sinh gan góc

Hai mươi năm giữ đất, giữ làng

Ôi mẹ là bà mẹ miền Nam.

Ta có ngờ đâu em ta đấy

Dưới mái lều kia em đã lớn lên

Em đệp lắm như mùa xuân bừng dậy

Súng trên vai cũng đẹp như em

Em ơi! Sao tóc em thơm vậy

Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng

Ta yêu giọng em cười trong trẻo

Ngọt ngào như nước dừa xiêm

Yêu dáng em đi qua cầu tre lắt lẻo

Dịu dàng như những nàng tiên

Em là du kích, em là giao liên

Em là chính quê hương ta đó

Mười một năm rồi ta nhớ, ta thương

Đêm đầu tiên ta ngủ giữa quê hương

Sao thấy lòng ấm lạ

Dù ngoài trời tầm tã mưa tuôn

Tiếng đại bác gầm rung vách lá

Ôi quê hương ta đẹp quá!

Dù trên đường còn những hố bom

Dù áo em vẫn còn mảnh vá

Chỉ có trái tim chung thủy, sắt son

Và khẩu súng trong tay cháy bỏng căm hờn.

9-1965

Theo Trái tim người lính

Lương Định

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/nha-tho-liet-sy-anh-hung-luc-luong-vu-trang-nhan-dan-le-anh-xuan-a3212.html