Nhà thơ Trần Nhương và ký ức về Quảng Trị

Tôi biết Trần Nhương từng là một người lính lái xe trên đường Trường Sơn huyền thoại. Năm 1965, khi đang là giáo viên, ông nhập ngũ lên đường vào tiền tuyến. Đây cũng là giai đoạn cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam bước vào giai đoạn ác liệt. Ở miền Bắc, chiến tranh phá hoại bằng không quân lần thứ nhất của đế quốc Mỹ bắt đầu. Phải nói thế, để thấy những người lính như Trần Nhương vào trận với tất cả khát khao được bảo vệ đất nước.

Vốn có năng khiếu văn chương từ bé, hiện thực khốc liệt của chiến tranh ùa vào tâm hồn Trần Nhương, bật lên cảm xúc thơ ca. Đối với Trần Nhương, những năm tháng đó, đúng là “vịn câu thơ” (chữ của Phùng Quán) để vượt qua mưa bom, bão đạn. Thơ đối với ông là những trang nhật ký. “Giấc ngủ giữa cung đường rất đỗi say sưa/Không là lái xe không thể có/Chiếc xe ấy vừa vượt trăm cây số/Giờ thành nôi ru chiến sĩ bên đường”.

Khung cảnh chiến trường, nhất là những cung đường “tọa độ lửa”, dẫu “Bom tọa độ rú lên hốt hoảng/Rạch trời những đường bay hỗn loạn”, nhưng giữa Trường Sơn lộng gió cũng đầy thơ mộng: “Đầy buồng lái là ánh trăng thanh/Trộn với hương rừng thoang thoảng/Vọng đến tiếng nai, tiếng hoẵng/Đàn dưới thung, suối dạo xa vời” (Ngủ giữa cung đường). Tình yêu trước cái đẹp tự nhiên của quê hương, đất nước góp phần tạo nên sức mạnh tinh thần cho người lính. Bài thơ này Trần Nhương sáng tác vào năm 1969-khi chiến tranh ở vào giai đoạn ác liệt nhất.

Thời điểm đó, trên tuyến đường Trường Sơn, ngoài bộ đội chủ lực, bộ đội công binh, bộ đội địa phương, còn có hàng vạn thanh niên xung phong (TNXP) cả nước chiến đấu, dũng cảm hy sinh, vượt qua gian khổ, bám chắc tuyến đường, trấn giữ các trọng điểm, ngày đêm chiến đấu, thực hiện khẩu hiệu: “Địch phá ta sửa ta đi”, “Địch phá ta cứ đi”. Những cuộc gặp, dẫu thoáng qua, gieo vào lòng người lính trẻ Trần Nhương biết bao cảm xúc.

Nhà thơ Trần Nhương (bên phải) và tác giả bài viết - Ảnh: Đ.H

Nhà thơ Trần Nhương (bên phải) và tác giả bài viết - Ảnh: Đ.H

Nhiều địa danh là trọng điểm đánh phá của đế quốc Mỹ đã vào thơ ông. “Đèo Khỉ” là bài thơ ông viết khi tham gia Chiến dịch Đường 9-Nam Lào; “Đường ra trận” viết tặng Trung đội nữ lái xe Trường Sơn mang tên Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Thị Hạnh: “Những chuyến xe đi ngày nắng đêm mưa/Xe hỏng hóc cũng chui gầm trèo bệ/Đường ra trận đạn bom là thế/Em vẫn đi vẫn đi...” (Tiễn chân em dưới vòm trời Vĩnh Linh).

Trải qua sản xuất, chiến đấu, rèn luyện, hàng vạn nam nữ TNXP, trong đó có TNXP Quảng Trị đã trưởng thành và lập công xuất sắc, đặc biệt trên các tuyến đường chiến lược, các trọng điểm địch đánh phá vô cùng ác liệt. Hành động anh hùng, sự chiến đấu dũng cảm, kiên cường, sẵn sàng hy sinh vì mạch máu giao thông Tổ quốc của nữ TNXP Nguyễn Thị Kim Huế trên đường 12A, Đinh Thị Thu Hiệp trên đèo Đá Đẽo (đường 15A)... mãi mãi là những tấm gương sáng chói của lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước.

Trần Nhương luôn trẻ ra mỗi khi nhắc lại những năm tháng đầy kỷ niệm của tuổi trẻ trong cabin xe giữa rừng Trường Sơn. “Nước chè một bát trao anh/Đã xanh màu nước lại xanh mắt nhìn”; “Bâng khuâng anh lái xe đi/Đầy buồng lái cái hương chè ngát xanh” (Chè rừng). Trần Nhương kể về những năm tháng ấy: “Chúng tôi là những người lính của vận tải quân sự chi viện cho chiến trường Lào từ năm 1965 cho đến khi nước Lào hoàn toàn giải phóng. Tôi không bám trụ ở vùng chiến trường này, nhưng hay đi công tác cùng anh em lái xe và những đồng chí làm nhiệm vụ ở đây. Có lần đến Noọng Hét, tất cả các đỉnh núi đều là vôi trắng, tức là bom đánh đến nỗi nung thành vôi”.

Hang Noọng Hét (thuộc tỉnh Xiêng Khoảng, Lào) là nơi nhà thơ Phạm Tiến Duật đã viết bài thơ “Tiếng cười trong hang đá”. Trần Nhương kể lại rằng, những đêm đi trên đèo đất, lúc ấy đường bằng đất chứ không trải nhựa như bây giờ, ông có cảm giác khi bánh xe lăn thì lớp bụi dày khoảng 30-40cm cứ kêu “bụp”, “bụp” như người ta giã bột. “Trên đầu thì máy bay địch lượn. Vượt những trọng điểm như thế rất kinh khủng”, ký ức những năm tháng ấy luôn theo ông.

“Tôi không quên một trận bom kinh hoàng ở đèo La Trọng (Quảng Bình cũ). Đêm hôm ấy, anh em đưa tôi về. Trên xe chở một tử sĩ bọc trong túi nilon. Tôi đứng trên thùng xe. Đèo dốc nghiêng ngả, anh chiến sĩ hy sinh ấy cứ lăn sang bên nọ, bên kia. Tôi lại phải nhảy từ bên này sang bên kia để không động vào anh. Những ngày tháng ấy cho tôi một vốn sống không thể nào có được lần nữa”, Trần Nhương chia sẻ.

“Tóc vừa quá vai đã sẻ nhiều sợi đỏ/Đôi dép lốp ôm bàn chân nhỏ/Mấy lần thay quai nay lại thay quai/Bao dấu dép in trên đường dài/Riêng dấu dép của em anh vẫn thấy/Mũi dép hướng vào trong ấy/Chẳng nói nhiều anh đã hiểu em ơi!” (Tiễn chân em dưới vòm trời Vĩnh Linh). Bài thơ này thấm đẫm tình cảm nhân văn, tình yêu đôi lứa nằm trong tình yêu lý tưởng, khát khao hiến dâng vì sự nghiệp thống nhất đất nước. Những bài thơ trên đường hành quân của Trần Nhương góp phần minh chứng, thời đất nước gian lao, “Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy” (thơ Chế Lan Viên), những câu thơ của thế hệ chống Mỹ tạc nên hình đất nước.

Năm 1993, nhà thơ Trần Nhương rời quân ngũ. 28 năm đời lính, trong đó có 11 năm thuộc biên chế lực lượng vận tải quân sự, hầu hết các tuyến đường ông đều đi qua. Nhà thơ tâm sự: “Có lẽ tôi trở thành người viết văn nhờ được nuôi dưỡng, được thai nghén từ những năm chiến tranh. Tôi viết với trách nhiệm của mình, vừa là công dân cũng là người xây dựng, đồng thời để tri ân người đã ngã xuống”.

Giọng ông chùng xuống, ký ức nặng trĩu khi nhớ lại những năm tháng đã qua. Là người đã đi qua suốt chiều dài cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, kể cả sau này là cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (dù lúc ấy ông đã ở cương vị khác trong quân ngũ), đã bước qua “lằn ranh” sống chết nên với Trần Nhương, tình cảm đồng chí thiêng liêng nhất. “Có lẽ nào em đã đi xa/Ngày toàn thắng biết bao người đều hỏi/Con đường đỏ cháy lên như tiếng gọi/Em ở đâu? Ngơ ngẩn rừng già” (Có lẽ nào em đã đi xa). Trần Nhương cũng có những câu thơ ám ảnh về còn/mất.

Đọc thơ Trần Nhương, chúng ta nhận ra “không gian” lưu giữ ký ức của ông, thấy quá khứ, hiện tại và tương tai trong một “dòng chảy” cảm xúc. Từ cảm xúc của bản thể nhà sáng tạo, vang vọng, lay thức suy nghĩ, tình cảm của người đọc. Cho đến nay, nhà thơ Trần Nhương đã có 25 đầu sách, trong đó có 4 tiểu thuyết, 2 tập truyện ngắn, 2 tập truyện, 1 chân dung văn học, 10 tập thơ và trường ca...

Đọc thơ Trần Nhương, độc giả nhận ra “chân dung” tác giả, ít nhất về tâm hồn. Vì sao đến bây giờ ông vẫn viết về đề tài hậu chiến?-một lần tôi hỏi. Trần Nhương trả lời, với ông viết cũng là cách để tri ân quê hương, đất nước, đồng đội đã ngã xuống và tình cảm Nhân dân đùm bọc.

Ngô Đức Hành

Nguồn Quảng Trị: https://baoquangtri.vn/van-hoa/202511/nha-tho-tran-nhuong-va-ky-uc-ve-quang-tri-af73f0c/