Nhiều dự án điện khí LNG có nguy cơ lỗi hẹn tiến độ

Thông tin trên được đưa ra tại Diễn đàn Chuỗi phân phối LNG toàn cầu và vị thế Việt Nam, tổ chức ngày 18/12/2024 tại Hà Nội.

Diễn đàn được tổ chức nhằm đề xuất các mô hình hợp tác và khai phá các cơ hội đầu tư nhằm phát triển bền vững ngành LNG tại Việt Nam. Tại diễn đàn, những vấn đề cốt lõi như hiện trạng thị trường LNG, xu hướng phát triển toàn cầu và khả năng Việt Nam tham gia chuỗi giá trị LNG quốc tế được tập trung thảo luận.

Các chuyên gia và đại diện doanh nghiệp đã chia sẻ những nhìn nhận sâu rộng về xu hướng tương lai, đề xuất các giải pháp tài chính linh hoạt và các cơ chế hợp tác công - tư nhằm thu hút đầu tư quốc tế vào Việt Nam.

Ý kiến các chuyên gia tại diễn đàn cho thấy, với tiềm năng tăng trưởng vượt bậc của thị trường LNG, Việt Nam đang đứng trước cơ hội vàng để khai thác lợi thế trong chuỗi cung ứng LNG toàn cầu. Tuy nhiên, sự phát triển ngành LNG tại Việt Nam không chỉ đơn thuần là vấn đề đầu tư hạ tầng kỹ thuật, mà còn đòi hỏi những chiến lược hợp tác quốc tế bài bản, sự cập nhật nhanh chóng xu hướng thị trường và đề xuất các chính sách tiên tiến nhất.

Quang cảnh Diễn đàn. Ảnh: Quang Lộc

Quang cảnh Diễn đàn. Ảnh: Quang Lộc

Theo bà Đặng Thị Thủy, Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Bộ Công Thương, nhu cầu thị trường khí Việt Nam, bao gồm khí tự nhiên nội địa và khí LNG nhập khẩu giai đoạn 2030 – 2050, cơ cấu nguồn cung khí tại Việt Nam từ nguồn mỏ trong nước sẽ chiếm từ 40% – 45%, nhu cầu khí nhập khẩu LNG ở Việt Nam sẽ dao động từ 55% - 60%. Nhu cầu sử dụng LNG sẽ tập trung tại 4 lĩnh vực: Sản xuất điện; nông nghiệp; sản xuất phân bón và hóa dầu.

Dự án điện và kho cảng LNG đang khiến thị trường LNG tại Việt Nam trở nên sôi động, lượng khí LNG nhập khẩu vào Việt Nam sẽ phục vụ chính cho việc sản xuất điện khí nhằm giảm thiểu phát thải gây ô nhiễm môi trường từ nhiệt điện than, cùng với đó là đảm bảo nguồn cung ổn định trước sự sụt giảm của tài nguyên than đá, thủy điện do hạn hán và khai thác quá mức đe dọa sản lượng phát điện trong tương lai gần”, bà Thủy nói

Tuy nhiên cũng theo vị chuyên gia này, do gia nhập thị trường LNG quốc tế muộn, Việt Nam buộc phải tuân thủ các thông lệ quốc tế được định sẵn trong quá trình nhập khẩu LNG. Thêm vào đó cơ sở vật chất và hành lang pháp lý cho việc nhập khẩu LNG đang trong giai đoạn hoàn thiện, chưa thể đáp ứng được nhu cầu hiện tại.

Chia sẻ những thách thức này, ông Nguyễn Đức Tùng, Viện Nghiên cứu chiến lược chính sách Công Thương cho biết, Việt Nam hiện vẫn dừng lại ở vai trò nhập khẩu và tiêu thụ LNG, chưa phát triển được các cơ sở khai thác, hóa lỏng, và phụ thuộc hoàn toàn vào các nhà cung cấp LNG nước ngoài.

Hiện nay Việt Nam đang chỉ mới tiếp xúc với thị trường LNG mua giao ngay, chưa ký bất kỳ hợp đồng mua bán LNG dài hạn nào. Việc phụ thuộc vào các giao dịch ngắn hạn làm cho giá LNG thường xuyên biến động, chịu tác động từ các yếu tố bên ngoài như thị trường quốc tế, chính sách xuất nhập khẩu của các nước cung cấp, và các biến động giá nhiên liệu. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của các nhà máy điện và các cơ sở công nghiệp mà còn gây khó khăn trong việc lập kế hoạch đầu tư và hoạt động lâu dài.

Liên quan đến phát triển nguồn điện khí LNG đến năm 2030, ông Lã Hồng Kỳ, Văn phòng Ban Chỉ đạo Nhà nước các dự án ngành năng lượng thông tin, trong số khoảng 14 dự án nhiệt điện khí đang triển khai, ngoại trừ nhà máy nhiệt điện Nhơn Trạch 3 và 4 dự kiến vận hành vào quý II và III/2025, các dự án điện khí có thể đưa vào vận hành thương mại trước năm 2030 gồm: Các dự án trong Trung tâm Điện lực Ô Môn, Hiệp Phước giai đoạn 1, tổng công suất các dự án đưa vào vận hành trước 2030 là 6.634 MW. Các dự án còn lại chỉ có thể đưa vào vận hành đến 2030 nếu hoàn thành đàm phán hợp đồng PPA, GSA và thu xếp vốn vay trước 2026.

Các khó khăn ở đây bao gồm về phía các địa phương là một số tỉnh chưa tiến hành lựa chọn được nhà đầu tư do còn lúng túng, chậm trễ trong công tác phê duyệt chủ trương đầu tư, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Bên cạnh đó hiện chưa rõ chủ đầu tư các đường dây đấu nối đồng bộ do một số đường dây đấu nối đồng bộ để giải tỏa công suất cho các dự án nhà máy điện lớn chưa được giao chủ đầu tư, ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện các dự án đường dây và việc đàm phán các thỏa thuận đấu nối giải tỏa công suất cho một số dự án điện khí.

Ngoài ra, một số chủ đầu tư nước ngoài còn yêu cầu thêm bảo lãnh chính phủ như bảo lãnh chuyển đổi ngoại tệ, bảo lãnh thnah toán và bảo lãnh chấm dứt hợp đồng của EVN, bảo lãnh rủi ro tiến độ đường dây truyền tải điện.

Bởi vậy, theo ông Kỳ, để các nhà máy nhiệt điện khí được triển khai đúng tiến độ thì ngoài việc xác định cơ cấu nguồn điện phù hợp thì cần tập trung xây dựng cơ chế, chính ách để giải quyết các khăn này.

Quang Lộc

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/nhieu-du-an-dien-khi-lng-co-nguy-co-loi-hen-tien-do-364862.html