Nhớ tô bún nước lèo của những ngày sau Tết

Hình như thịt mỡ của những ngày trước, trong và sau Tết hầu như ai ai cũng ngán mỗi khi ngồi vào mâm cơm gia đình. Nào là thịt kho rệu, nào là khổ qua hầm, nào là các món xào... dù chỉ mới nghe mùi thôi đã khiến cho mọi người ngán đến tận cổ. Có người ao ước có được tô bánh canh mặn nấu với cá lóc, có người thích món các lóc nướng trui chấm với mắm bò hóc óp hoặc ít cầu kỳ hơn là món cá chạch kho nghệ ngon vô tưởng. Nhưng với tôi thì tất cả các món ấy đều không qua được tô bún nước lèo nóng hổi, thơm lừng lựng. Mùi vị bún nước lèo đã 'quấn quýt' tôi từ khi tôi còn là thằng nhóc tỳ của xóm tản cư đến tận sau này.

"Xóm tản cư" là cái xóm nhỏ mà hầu hết là dân tản cư từ miệt ruộng quê tôi ra vùng ven rìa thị trấn quận lỵ để trốn tránh các cuộc hành quân càn quét ác liệt. Mấy chục gia đình chèo chống ra đây dựng tạm lên những căn nhà tre lá ọp ẹp cho cuộc sống tạm bợ qua ngày. Không ai có thể biết được bao lâu nữa mới được trở về quê cũ nên hầu hết người lớn trong xóm vẫn đi đi, về về làm lụng trong quê khi vào thời điểm dọn đất cấy, khi vào vụ thu hoạch lúa. Để kiếm thêm chút ít tiền chi xài hằng ngày, có người mở thêm tiệm tạp hóa nơi đầu xóm, có người làm bánh bò, bánh da lợn, bánh gan, bánh lá dừa... bưng đi bán vòng vòng trong xóm hoặc ở góc chợ cách xóm tản cư tầm hai, ba cây số. Còn đám trẻ nít chúng tôi thèm... đủ thứ nhưng có tiền đâu mà mua. Sáng sáng trước khi đi học thì nhai cơm rang muốn mỏi miệng.

Bún nước lèo - một hương vị khó quên của người dân Sóc Trăng.

Bún nước lèo - một hương vị khó quên của người dân Sóc Trăng.

Kế tiệm tạp hóa đầu xóm là "quán" bún nước lèo của vợ chồng thím Huôi - là người Khmer từ Vũng Thơm (nay là xã Phú Tâm, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng) qua và xin "ở ké cho vui" với bà con cùng cảnh ngộ… tản cư. Má tôi nói bún nước lèo của thím rất ngon, đúng khẩu vị của bà con Khmer, không lai tạp như tô bún nước lèo ngoài chợ thêm thắt đủ thứ. Hầu như chú thiếm không hề tốn tiền mua các phụ liệu ngoài chợ, trừ ra mấy ký bún. Cứ sau buổi sáng bán bún, chú thím chèo chiếc tam bản dọc theo sông chài cá, tép để mai bán. Cá tép thời đó rất nhiều nên chỉ chừng vài tiếng đồng hồ là... dư xài. Chiều mát thiếm đi dọc theo mấy miếng vườn để thọc bắp chuối làm rau ghém. Còn mắm sặc, mắm rô, mắm bò hóc do chú thím chài cá dưới sông rồi làm mắm nên ở bên hông nhà để la liệt các hũ mắm do chú thím làm sẵn. Dân tản cư đa phần là nghèo, thu nhập chủ yếu từ làm ruộng nên cuộc sống khá bấp bênh, chi tiêu hàng ngày rất tằn tiện. Biết vậy, nên thím Huôi bán giá tô bún rất rẻ. Nếu gói xôi bán trước cửa trường học có giá 5 cắc thì tô bún của thím chưa tới một đồng. Đám học trò chúng tôi sáng nào cũng kéo cả chục đứa đến ngồi kín bàn, lua vội tô bún trước khi đi học. “Bàn” là những thanh tre ghép lại đặt trên những chân trụ của cây bình linh, mù u, trâm bầu, mặt “bàn” ngang chừng 6 - 7 tấc, dài chừng hơn 2 thước. Dọc theo 2 mép bàn là những chiếc ghế súp cũng bằng tre do chú Huôi tự làm. Đối với đám trẻ nít như chúng tôi thì thím làm tô nhỏ nhưng chất lượng không thua tô bún của người lớn, thỉnh thoảng thím còn cho thêm mấy con tép bạc bự chảng. Còn người lớn hầu hết đều thích khúc đầu cá lóc kèm thêm mấy cái ruột cá nên tô bún vun trùng, nhiều gần gấp đôi tô của đám trẻ, bởi ai cũng là dân lực điền ăn mạnh, uống bạo.

Rồi những ngày bán ế do rơi vào thời điểm dọn đất hay vào vụ thu hoạch, chú thím kêu đám trẻ đến "tặng" cho mỗi đứa một tô đầy tôm, tép hoành tráng có thể chất lượng hơn tô đặc biệt bây giờ. Sau thu hoạch lúa, quán bún của thím Huôi luôn luôn đông khách vào buổi sáng và hiện diện đủ các tay nhậu vào buổi chiều với móm som lo (xiêm lo) đúng chuẩn chất của bà con Khmer. Đám trẻ chúng tôi hồi đó không có thói quen ngủ trưa nên thường thường hay kéo tới nhà chú thím để nghe chú kể chuyện xưa và khoái học tiếng Khmer do chú dạy chúng tôi.

Nhưng năm nào cũng vậy, cứ đến Tết thì chú thím chèo ghe về quê cho đến qua ngày mùng 5, mùng 6 chú thím mới trở lại. Và khỏi phải nói, nồi bún ước lèo của thím đắt như tôm tươi. Có lẽ do những ngày Tết nhiều thịt mỡ, nên tô bún nước lèo của thím Huôi trở thành một món ngon vô đối. Vẫn là miếng thịt cá lóc đã lấy hết xương, mấy con tép, tôm lóng đã lột vỏ cùng với mớ rau ghém mà đem đổi với tô thịt kho rệu chắc không ai chịu đổi. Rồi những "thực khách" lớn tuổi cũng một tô bún nước lèo nhưng trải chiếc đệm bên hông quán nhâm nhi với chú Huôi - tất nhiên không thiếu nồi xiêm lo do chú nấu cực ngon, gọi là ăn Tết muộn với chú. Còn đám trẻ nít chúng tôi vẫn xì xụp vừa nhai, vừa húp như món ngon nào giờ chưa được ăn. Thỉnh thoảng thím "gọi" (xin, cho thêm) một ít bún, tôm, nước lèo với nụ cười hiền diệu, với ánh mắt tràn ngập yêu thương đám nhóc tỳ chúng tôi. Quả thật, những ngày sau Tết với tôi không có món nào trở bữa bằng tô bún nước lèo ngày đó và hương vị ấy đã "quấn quýt" tôi từ thời còn trẻ nít cho đến tận hôm nay.

Sau ngày 30/4/1975, bà con xóm tản cư lần lượt trở về quê cũ, đám trẻ ngày nào thỉnh thoảng gặp nhau ai cũng nhắc đến chú thím Huôi và vẫn còn nhớ như in hương vị tô bún nước lèo phảng phất hương vị mắm bò hóc và những miếng thịt cá lóc rút hết xương, những con tôm, tép ngọt lịm làm cho tô bún vun trùng tưởng chừng như ăn không hết, ấy vậy mà có đứa vẫn “gọi” thêm. Tô bún nước lèo bây giờ dù có đầy đủ phụ liệu, lại thêm những lát heo quay, giò chéo quẩy… nhưng tôi đoán chắc rằng nó không thể so với tô bún nước lèo của thím Huôi của chúng tôi ngày trước.

THIÊN LÝ

Nguồn Sóc Trăng: https://baosoctrang.org.vn/doi-song-xa-hoi/202502/nho-to-bun-nuoc-leo-cua-nhung-ngay-sau-tet-a711751/