Nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng biển đến 2030 khoảng 351.500 tỷ đồng
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định 140/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo quy hoạch, có 5 nhóm cảng biển. Nhóm cảng biển số 1, gồm 5 cảng biển: Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình.
Nhóm cảng biển số 2, gồm 6 cảng biển: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và TP Huế.
Nhóm cảng biển số 3, gồm 8 cảng biển: Đà Nẵng (bao gồm huyện đảo Hoàng Sa), Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa (bao gồm huyện đảo Trường Sa), Ninh Thuận và Bình Thuận.
Nhóm cảng biển số 4, gồm 5 cảng biển: TPHCM, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương và Long An.
Nhóm cảng biển số 5, gồm 12 cảng biển: Cần Thơ, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Hậu Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang.
Quyết định nêu rõ mục tiêu và nội dung quy hoạch đối với từng nhóm cảng biển. Nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng biển đến năm 2030 khoảng 351.500 tỷ đồng, gồm đầu tư cho hạ tầng hàng hải công cộng, khoảng 72.800 tỷ đồng và bến cảng khoảng 278.700 tỷ đồng (chỉ bao gồm các bến cảng kinh doanh dịch vụ xếp dỡ hàng hóa).
Tổng nhu cầu sử dụng đất theo quy hoạch đến năm 2030 khoảng 33.800ha (bao gồm các khu vực phát triển cảng biển, khu bến Cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ và các khu công nghiệp, logistics… gắn liền với cảng), trong đó cảng biển là 17.300ha.
Tổng nhu cầu sử dụng mặt nước theo quy hoạch đến năm 2030 khoảng 606.000ha (chưa bao gồm diện tích vùng nước khác trong phạm vi quản lý không bố trí công trình hàng hải là 900.000ha).
Quy hoạch nêu rõ, về kết cấu hạ tầng hàng hải công cộng, trong đó có đầu tư mở rộng đoạn cong chữ “S” luồng Cái Mép - Thị Vải. Về bến cảng biển, sẽ đưa vào khai thác từ bến cảng số 3 đến bến cảng số 8 tại khu bến Lạch Huyện; các bến tại khu bến Liên Chiểu, các bến cảng chính thuộc cảng biển loại I; các bến cảng khách du lịch, bến khách quốc tế và các bến du thuyền gắn với các vùng động lực phát triển du lịch; các bến cảng quy mô lớn gắn trung tâm điện lực than, khí, xăng dầu, luyện kim; các bến phục vụ khu kinh tế ven biển.
Kêu gọi đầu tư các bến cảng tại các cảng biển tiềm năng Vân Phong và Trần Đề. Đầu tư khởi động khu bến Nam Đồ Sơn (Hải Phòng), các bến cảng tại khu vực Cái Mép hạ; bến Cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ (TPHCM) và khu bến Trần Đề (Sóc Trăng).
Quyết định nêu rõ các giải pháp thực hiện, trong đó xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách sử dụng nguồn thu từ cho thuê khai thác kết cấu hạ tầng bến cảng biển được đầu tư bằng nguồn ngân sách Nhà nước, để xây dựng kết cấu hạ tầng hàng hải công cộng.
Cùng với đó, rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy định cụ thể về thu phí sử dụng hạ tầng cảng biển theo hướng không thu phí hạ tầng đối với việc gom, rút hàng bằng đường thủy nội địa, nhằm đẩy mạnh năng lực vận tải thủy nội địa, giảm áp lực cho vận tải bằng đường bộ.
Chính phủ cũng rà soát, sửa đổi và ban hành chính sách khuyến khích đầu tư cảng biển có mô hình cảng xanh, thông minh, sử dụng công nghệ và nhiên liệu sạch, các bến cảng, bến cảng du lịch (bến khách, bến du thuyền) gắn kết chặt chẽ với vùng động lực về du lịch và hệ thống khu du lịch.
Ứng dụng công nghệ tiên tiến, giảm phát thải theo quy định. Nghiên cứu và phát triển công nghệ sử dụng điện, năng lượng xanh, giảm phát thải. Nâng cao khả năng thu gom nước thải, rác thải tại các cảng bến, cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu, phương tiện vận tải thích ứng với biến đổi khí hậu và cam kết phát thải ròng về "0" vào 2050.