Những cái tết thời bao cấp của người Dầu khí
Ký ức về ngày tết của nhiều cựu cán bộ ngành Dầu khí trong thời bao cấp đơn giản chỉ là bữa cơm giản dị ở nơi xa, những đêm giao thừa vắng nhà, hay những giây phút đoàn tụ ngắn ngủi nhưng ấm áp. Giữa những thiếu thốn vật chất, tình đồng nghiệp, sự sẻ chia của người dân và trách nhiệm với đất nước đã trở thành động lực lớn lao giúp họ hoàn thành sứ mệnh tìm dầu cho Tổ quốc.
Mùa xuân gian khó nhưng hạnh phúc
TSKH Trương Minh, nguyên Ðoàn trưởng Ðoàn đồng bằng Cửu Long, Phó Vụ trưởng Vụ Kỹ thuật - Tổng cục Dầu khí, Phó Viện trưởng Viện Dầu khí Việt Nam vốn quê ở làng Phiếm Ái (xã Ðại Nghĩa, huyện Ðại Lộc, tỉnh Quảng Nam). Năm 1954, ông một mình theo đoàn học sinh, cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc.
Năm 1962, sau nhiều năm học tập tại nước ngoài, TS Trương Minh về công tác tại Ðoàn Dầu lửa 36 (thành lập tháng 11/1961) trực thuộc Tổng cục Ðịa chất, đóng tạm thời tại Trường Ðảng Bắc Ninh. Sau đó chuyển về Chợ Gạo, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hải Hưng (cũ).
Do đặc thù công việc, các kỹ sư công nhân thuộc Tổng cục Ðịa chất thường xuyên phải di chuyển qua các làng quê khắp vùng Ðồng bằng Bắc Bộ để tiến hành đo địa chấn, nhằm tìm vết tích của dầu khí. Cuộc sống giản dị như những người lính, “đến đâu ăn đó, tối đâu nghỉ đó”. Trong thời thiếu thốn ấy, bữa cơm thường chỉ có những món ăn cây nhà lá vườn do người dân địa phương chiêu đãi nhưng đầy nồng hậu và sẻ chia.
Nhiều đêm giao thừa, TS Trương Minh và đồng nghiệp không kịp trở về đơn vị mà đón tết ngay tại những ngôi làng xa, bên bếp lửa ấm cúng của người dân. “Tết thời đó đơn sơ lắm”, ông Minh nhớ lại, “chỉ có chút thịt lợn, con cá kho và vài cái bánh chưng. Nhưng điều quan trọng nhất là cái bụng no và sự đầm ấm của tình người”.
Những lần hiếm hoi được đón tết cùng gia đình, với ông, lại càng trân quý hơn. Ông vẫn nhớ mãi cái tết quây quần trong căn hộ tập thể nhỏ. Khi đó, chế độ tem phiếu chỉ đủ mua vài trăm gram thịt lợn, chút gạo nếp và hộp mứt nhỏ. Mâm cơm không nhiều món nhưng vẫn đầy ắp tiếng cười. Với ông, đó là sự ấm cúng không gì có thể sánh được, một niềm hạnh phúc giản dị nhưng sâu sắc, đủ để sưởi ấm cả những năm tháng gian khổ sau này.
Sau nhiều năm cống hiến tại Tổng cục Ðịa chất, ông Trương Minh nhận được quyết định đi Liên Xô làm nghiên cứu sinh. Ðây là cơ hội lớn, nhưng cũng là thử thách khi ông phải xa gia đình trong thời gian dài. Trước ngày lên đường, vợ ông đã dành dụm từng đồng để mua được một con gà - món ăn xa xỉ vào thời điểm đó. Bà kỳ công chuẩn bị một bữa cơm thật tươm tất để tiễn chồng lên đường, như cách gửi gắm tình yêu và hy vọng vào hành trình sắp tới của ông.
Bữa cơm hôm ấy diễn ra trong không khí vừa ấm cúng vừa bồi hồi. Các con của ông ríu rít quanh mâm, háo hức với món thịt gà, thứ mà cả nhà hiếm khi được ăn. Trong lúc mọi người đang vui vẻ, cô con gái nhỏ bất chợt hỏi mẹ: “Chắc phải đợi đến khi ba học xong về, nhà mình mới lại được ăn thịt gà nữa, mẹ nhỉ?”.
Lời nói hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ như lặng đi trong không gian, khiến vợ chồng ông Trương Minh nghẹn ngào. Ông cố nén cảm xúc, gượng cười xoa đầu con, nhưng ánh mắt không giấu nổi nỗi xót xa và thương yêu. Người vợ, trong lúc thu dọn bát đũa, cũng âm thầm quay mặt đi, giấu những giọt nước mắt lăn dài vì vừa thương chồng, vừa lo lắng cho tương lai gia đình khi ông vắng mặt.
Bữa cơm ấy không chỉ ghi dấu tạm biệt, mà còn trở thành một kỷ niệm sâu sắc trong lòng ông, nhắc ông nhớ về tình cảm gia đình và những hy sinh thầm lặng sau mỗi bước đường ông đi. Chính tình yêu và sự động viên ấy đã trở thành nguồn động lực lớn lao, giúp ông vượt qua những thử thách trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu nơi đất khách.
Sau khi hoàn thành chương trình nghiên cứu và nhận bằng phó tiến sĩ tại Liên Xô, ông trở về nước với nhiệt huyết cống hiến cho sự nghiệp tìm kiếm dầu khí. Ông được phân công về các tỉnh Ðồng bằng sông Cửu Long, một vùng đất mới đầy tiềm năng nhưng cũng không ít thách thức. Hành trình của ông trải dài qua nhiều địa phương, từ Cần Thơ đến TP HCM rồi Vũng Tàu, nơi ông cùng đồng nghiệp miệt mài khảo sát, nghiên cứu địa chất, từng bước vẽ nên những bản đồ dầu khí quan trọng.
Những năm tháng ấy, ông hiếm khi có cơ hội sum họp cùng gia đình trong những ngày tết. Giao thừa thường đến khi ông đang ở một nơi xa lạ, giữa những trạm khảo sát tạm bợ hoặc các cơ sở làm việc dã chiến. Ðêm 30, khi khắp nơi rộn ràng tiếng pháo và lời chúc mừng năm mới, ông lặng lẽ ngồi một góc, nhớ da diết không khí tết đầm ấm bên vợ con, nhớ mâm cơm đơn sơ nhưng đầy ắp tiếng cười trong căn hộ tập thể nhỏ bé ở Hà Nội.
Tuy vậy, ông luôn tự nhắc nhở bản thân rằng, những hy sinh cá nhân đều vì một nhiệm vụ lớn lao: tìm dầu cho Tổ quốc, góp phần xây dựng nền kinh tế đất nước. Với ông, mỗi giếng khoan, mỗi lát cắt địa chất phát hiện tiềm năng dầu khí đều là minh chứng cho nỗ lực không ngừng nghỉ, là món quà ông muốn dâng tặng quê hương.
Năm 1982, ông được trở về Hà Nội công tác, mang theo niềm hy vọng về một cái tết đầm ấm sau những năm tháng xa cách và bôn ba khắp nơi vì công việc. Tưởng rằng năm ấy, ông sẽ lần đầu tiên được đón giao thừa bên mâm cơm gia đình, nhưng một sự việc bất ngờ đã thay đổi mọi dự tính.
Những năm tháng ấy, ông hiếm khi có cơ hội sum họp cùng gia đình trong những ngày tết. Giao thừa thường đến khi ông đang ở một nơi xa lạ, giữa những trạm khảo sát tạm bợ hoặc các cơ sở làm việc dã chiến.
Sáng 30 tết, khi phố phường Hà Nội đã tràn ngập không khí náo nức của những ngày cuối năm, ông nhận được tin từ lãnh đạo Tổng cục: một chuyên gia Liên Xô đang làm việc tại Thái Bình bất ngờ lâm bệnh nặng, cần được đưa đi cấp cứu ngay. Mệnh lệnh khẩn trương không cho phép ông chần chừ. Gác lại niềm vui đoàn tụ bên vợ con, ông vội vã thu xếp hành lý, lên đường làm nhiệm vụ.
Hành trình từ Hà Nội đến Thái Bình giữa ngày cuối năm vừa vội vã, vừa lạnh lẽo. Ông nhớ như in khung cảnh đường sá vắng vẻ, những cành đào chờn vờn trong gió rét và cảm giác trống trải khi nghĩ đến gia đình đang chuẩn bị đón giao thừa mà thiếu vắng mình. Dù vậy, ý thức trách nhiệm đã giúp ông vượt qua mọi mệt mỏi, tập trung hoàn thành nhiệm vụ.
Trở về Hà Nội sau sự việc, ông mới biết mình không kịp đến cơ quan để nhận suất quà tết được phát cho cán bộ. Mâm cơm ngày tết năm đó của gia đình ông hoàn toàn trông vào phần tem phiếu vợ ông dành dụm được: một ít thịt lợn, vài lạng gạo nếp, thêm hộp mứt nhỏ... Nhưng dù giản đơn, bữa cơm vẫn tràn đầy yêu thương và sự ấm áp.
Nhìn các con quây quần bên mâm cỗ nhỏ, ông cảm thấy lòng nhẹ nhõm. “Tôi không vì thế mà buồn”, ông kể, “bởi tôi hiểu rằng, không chỉ vì một người cần được cứu giúp, mà còn bởi đó là trách nhiệm và nghĩa vụ lớn lao của một người làm khoa học đối với đất nước, với những người đang đồng hành cùng mình trong sự nghiệp chung”. Cái tết ấy, dù thiếu thốn, vẫn để lại trong ông một ký ức khó quên, nơi trách nhiệm và tình yêu gia đình hòa quyện, tiếp thêm động lực để ông tiếp tục cống hiến.
Tết vui hơn nhờ kinh doanh... thuốc pháo
Còn theo ông Nguyễn Xuân Nhự, một kỹ sư địa chất kỳ cựu, những cái tết của ông và đồng nghiệp thời bao cấp cũng hết sức đơn sơ, giản dị. Chỉ đến khi xí nghiệp của ông có thêm nghề tay trái thì anh chị em cán bộ, công nhân mới có được cái tết no đủ hơn. Ông Nhự nhớ lại.
Tháng 9/1971, vừa tốt nghiệp khóa đầu tiên của Ðại học Mỏ - Ðịa chất, ông được phân công về Ðoàn 36K thuộc Liên đoàn 36 (thuộc Tổng cục Ðịa chất) - đơn vị chuyên khoan các giếng nông sâu 1.200m để nghiên cứu cấu tạo địa chất vùng Ðồng bằng sông Hồng. Chỉ mới nhận công tác, ông đã đảm nhiệm vai trò địa chất trưởng giếng khoan 37.
Những cái tết thời bao cấp của người Dầu khí không chỉ là câu chuyện về sự gian khó mà còn là biểu tượng của tinh thần cống hiến và sự sẻ chia. Dù phải đón giao thừa xa nhà, ăn những bữa cơm đạm bạc hay tìm cách xoay xở để cải thiện đời sống, họ vẫn giữ trọn niềm tin và trách nhiệm với Tổ quốc.
Một thời gian sau, ông được chuyển về Phòng Kỹ thuật Ðoàn 36K, nơi ông giám sát và chỉ đạo thi công các giếng khoan. Tiếp đó, ông làm địa chất trưởng giếng khoan 35 tại xã Giao Hồng (huyện Giao Thủy, Nam Ðịnh). Khi Liên đoàn 36 chuyển về Thái Bình, ông lại về Phòng Kỹ thuật của Liên đoàn, nơi các giếng khoan thăm dò ngày càng sâu, từ 1.700m đến hơn 4.000m.
Thời bao cấp, ông Nhự còn trẻ và chưa lập gia đình, nên thường nhận trực tết tại đơn vị để đồng nghiệp xa quê được về nhà. Quê ông gần đơn vị, vì thế ông tranh thủ về thăm gia đình trước tết, rồi quay lại làm nhiệm vụ.
Ông nhớ nhất cái tết năm 1972 khi đội công tác của ông đóng tại thôn Trà Ðoài (xã Quang Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình). Ðội có 5 người, mỗi người một quê - từ Thái Bình, Thanh Hóa, Hưng Yên đến Nghệ An và Vĩnh Phú. Sau ca trực, ông chờ mãi nhưng không có đồng nghiệp đến thay, đành ở lại đơn vị xuyên tết.
Một cái tết khác, ông dành ngày phép của mình để trực thay một đồng nghiệp quê Vĩnh Phúc, người buồn bã vì nhiều lần về phép mà vợ vẫn chưa có con. Nhờ sự hỗ trợ ấy, đồng nghiệp ông có thêm thời gian bên gia đình.
Ðến năm 1983, nhiệm vụ thăm dò dầu khí ở Ðồng bằng sông Hồng gần như dừng lại. Công ty Dầu khí 1, nơi ông Nhự công tác có gần 2.200 cán bộ, trong đó hơn 200 kỹ sư và gần 1.000 công nhân lành nghề. Trước khó khăn chung, công ty triển khai “kế hoạch 3” để tự cứu mình, giữ nguồn nhân lực cho tương lai.
Năm đó, Xưởng Nghiên cứu Thực nghiệm được thành lập, ông Nhự được cử làm xưởng trưởng. Mặc dù cơ sở vật chất gần như không có gì, xưởng với gần 100 cán bộ kỹ thuật đã tìm cách tự hạch toán, tự lo công việc để tăng thu nhập.
Bằng sự nhạy bén, ông Nhự phát hiện rằng việc sản xuất KCO3 (kali clorat) để làm thuốc pháo là một hướng đi khả thi. Lúc bấy giờ, kali clorat là một trong những nguyên liệu “nóng” nhất thị trường vì pháo nổ là sản phẩm phổ biến trong các dịp lễ tết. Tuy nhiên, việc sản xuất loại hóa chất này đòi hỏi kiến thức hóa học, kỹ thuật cao, cùng với sự sáng tạo trong thiết kế quy trình. Với trình độ chuyên môn vững vàng, đội ngũ kỹ sư của xưởng đã nghiên cứu và phát triển thành công một quy trình sản xuất được dân làm pháo làng Bình Ðà (Thanh Oai, Hà Tây) tin dùng và ưu tiên mua.
Ông Nhự không chỉ giỏi trong sản xuất mà còn xuất sắc trong kinh doanh. Ông lựa chọn hình thức “hàng đổi hàng” để tối ưu hóa lợi nhuận; đồng thời chọn đúng thời điểm tốt nhất để đổi. “Nếu đổi vào tháng Chạp, 1 cân kali clorat chỉ được đổi 1 bánh pháo thành phẩm, nhưng đổi vào tháng Giêng hoặc tháng Hai, giá trị sẽ tăng gấp đôi. Nhờ vậy, cuối năm, khi pháo được bán ra, lợi nhuận sẽ tăng gấp đôi”, ông Nhự cho biết.
Không dừng lại ở đó, người kỹ sư kiêm “doanh nhân” còn sáng tạo trong việc tận dụng thị trường phân bón. Khi ấy, trên thị trường có hai loại phân kali: kali trắng (hàm lượng KCl cao hơn) và kali đỏ. Nông dân ưa chuộng kali đỏ vì dễ sử dụng, sẵn sàng đổi 2 cân kali trắng lấy 1 cân kali đỏ. Ông Nhự liền thu mua kali đỏ, đổi lấy kali trắng từ các hợp tác xã, rồi dùng kali trắng này để sản xuất kali clorat. Với mỗi cân kali trắng, quy trình cải tiến của xưởng thu về đến 1,4 cân kali clorat - vừa tiết kiệm nguyên liệu, vừa tăng năng suất sản phẩm.
Sản xuất xong, việc bảo quản và phân phối hàng hóa cũng được tổ chức một cách chặt chẽ. Thuốc pháo là mặt hàng dễ cháy nổ, nên ông Nhự cho chia nhỏ khối lượng và bảo quản ở nhiều địa điểm khác nhau để giảm thiểu rủi ro. Ðến gần tết, toàn bộ cán bộ, công nhân viên trong xưởng được huy động tham gia vào công đoạn đóng gói, làm nhãn mác và dán nhãn cho pháo thành phẩm.
Lãnh đạo xưởng chủ động liên hệ với các đại lý và hợp tác xã trong tỉnh để phân phối sản phẩm. Giáp tết, toàn bộ pháo được bán ra, không chỉ mang lại lợi nhuận cao mà còn giúp cán bộ, công nhân viên có thêm thu nhập đáng kể. Nhờ đó, tết của xưởng trở nên ấm áp hơn với những mâm cơm có thêm thịt lợn, gà và các món ăn ngon khác.
Năm 1984-1985, nhờ nghề “tay trái” sáng tạo, Xưởng Nghiên cứu Thực nghiệm không chỉ vượt qua khó khăn mà còn tạo động lực mạnh mẽ cho cán bộ, nhân viên tiếp tục gắn bó với ngành. Những cái tết đó đã để lại trong lòng ông Nhự và đồng nghiệp những kỷ niệm đáng nhớ về thời kỳ gian khó nhưng đầy nghị lực.
Những mùa xuân ấy, dù đơn sơ nhưng ấm áp tình người, đã trở thành ký ức quý giá, khắc sâu trong lòng những con người dành cả cuộc đời để thắp sáng hy vọng cho ngành Dầu khí Việt Nam. Và những cái tết thời bao cấp của người Dầu khí không chỉ là câu chuyện về sự gian khó mà còn là biểu tượng của tinh thần cống hiến và sự sẻ chia. Dù phải đón giao thừa xa nhà, ăn những bữa cơm đạm bạc hay tìm cách xoay xở để cải thiện đời sống, họ vẫn giữ trọn niềm tin và trách nhiệm với Tổ quốc.