Những câu chuyện bi tráng về Thủ Khoa Huân và tướng sĩ

Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân là một trong những lãnh tụ khởi nghĩa tiêu biểu nhất lục tỉnh Nam Kỳ thời kỳ đầu chống Pháp xâm lược. Năm 2025, kỷ niệm 150 năm ngày ông ngã xuống trước pháp trường, một không khí tưởng niệm vị anh hùng dân tộc lan tỏa khắp quê hương Tiền Giang và Nam Bộ. Những câu chuyện truyền kỳ về ông và các tướng sĩ được khơi lại thật xúc động.

Chợ Gạo - đất thiêng hội tụ anh hùng

Chợ Gạo là một huyện phía đông tỉnh Tiền Giang, nằm giữa Mỹ Tho ở phía tây với Gò Công ở phía đông. Theo “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn, cái tên Chợ Gạo bắt nguồn từ một ngôi chợ ở thôn Bình Phan, tên chữ nói trại từ Bình Phương, do ông Trần Văn Nguyệt thành lập vào thời vua Lê Hiển Tông cuối thế kỷ XVIII.

Nhờ tại đây có nhà máy xay lúa đầu tiên trong vùng lại nằm cạnh sông dưới chân cầu Quay rất thuận lợi nên chợ dần hình thành. Dân các vùng lân cận theo đường sông mang lúa tới xay xát. Thương lái cũng tập trung về đây mua gạo chở bằng tàu thủy ra sông Tiền lên Sài Gòn. Chợ Gạo tàu thuyền mua bán tấp nập, dân cư đông đúc, quang cảnh vùng này ngày càng sầm uất.

Tượng đài Anh hùng dân tộc Nguyễn Hữu Huân ở Mỹ Tho.

Tượng đài Anh hùng dân tộc Nguyễn Hữu Huân ở Mỹ Tho.

Không chỉ bề dày văn hóa, Chợ Gạo còn là đất thiêng hội tụ anh hùng hảo hán. Vào cuối thế kỷ XIX, Chợ Gạo cùng với Gò Công là địa bàn hoạt động chính của cuộc khởi nghĩa do Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định lãnh đạo thời kỳ đầu chống Pháp xâm lược. Chợ Gạo còn là nơi sinh ra hai thủ lĩnh từng sát cánh với Trương Định là Phủ Cậu Trần Xuân Hòa và Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, đồng thời là quê vợ của một lãnh tụ khởi nghĩa lẫy lừng khác gắn bó đất này là Thiên hộ Võ Duy Dương.

Cuộc khởi binh của Phủ Cậu Trần Xuân Hòa lấy quê nhà làm căn cứ địa đã có tầm ảnh hưởng rộng lớn, nhất là khi ông liên kết với Trương Định cùng các lực lượng khác tạo thêm sức mạnh gây cho quân Pháp nhiều tổn thất và sợ hãi. Sau khi Phủ Cậu bị giặc bắt và tuẫn tiết thì Thủ Khoa Huân gần như tiếp bước chọn quê hương làm điểm tựa cho cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ và kiên cường.

Thủ khoa Huân tên thật là Nguyễn Hữu Huân, sinh năm Canh Dần 1830, tại làng Tịnh Hà, huyện Kiến Hưng, phủ Kiến An, tỉnh Định Tường về sau tương ứng với xã Mỹ Tịnh An, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Năm Nhâm Tý 1852, dưới triều vua Tự Đức nhà Nguyễn, ông đã đỗ Thủ khoa kỳ thi Hương tại Trường thi Gia Định, đứng đầu bảng danh sách Cử nhân. Từ đó biệt danh Thủ Khoa Huân xuất hiện.

Năm 1859, thực dân Pháp đưa quân từ Đà Nẵng vào bắt đầu đánh chiếm thành Gia Định và Nam Kỳ lục tỉnh, Nguyễn Hữu Huân đang phụ trách công việc giáo thụ huyện Kiến Hưng, phủ Kiến An đã chiêu mộ nghĩa quân đứng lên chống giặc. Đây là thời điểm khởi đầu mười lăm năm xuôi ngược miền sông rạch của ông với 3 lần dựng cờ khởi nghĩa, trong đó có 5 năm bị bắt đi đày biệt xứ và 3 năm bị quản thúc tại Chợ Lớn.

Mười lăm năm bằng thời gian nàng Kiều lưu lạc, nhưng là mười lăm năm hào hùng vào sinh ra tử, vào tù ra khám, ngang dọc bưng biền, lênh đênh biển cả và hy sinh lẫm liệt vì nghĩa lớn của một nhà đại trí thức nho học yêu nước, một vị anh hùng dân tộc có sức ảnh hưởng lớn: Thủ Khoa Huân.

Do bị phản bội chỉ điểm, lần thứ 3 Thủ Khoa Huân sa vào tay giặc ở Chợ Gạo và bị đưa về giam ở ngục Mỹ Tho, trong khi Phó tướng Âu Dương Lân hy sinh tại trận. Dù bị địch dụ hàng bằng danh lợi, chức tước nhưng đều không lung lay được ý chí ông. Ngày 19/5/1875, Pháp đưa ông xuống tàu thủy chở theo dòng Bảo Định Giang về Mỹ Tịnh An, Chợ Gạo để hành quyết vào lúc 12 giờ trưa chính ngọ.

Pháp dự định biến cuộc hành quyết vị lãnh tụ khởi nghĩa thành mối hù dọa đầy sợ hãi cho dân chúng, nhưng ông không cho chúng thực hiện được mưu đồ. Khi trên tàu cũng như trước pháp trường, ông luôn tỏ ra bản lĩnh can trường, đọc sang sảng thơ tuyệt mệnh đầy khí phách viết từ trong ngục:“Hữu chí nan thân, không uổng bách niên chiêu vật nghị/ Tuy công bất tựu, diệc tương nhất tử báo quân ân” (Có chí khó giương ra, luống để trăm năm mang miệng thế/ Dầu công không đạt được, cũng liều một chết báo ơn vua”.

Những chuyện truyền kỳ tướng sĩ của Thủ khoa Huân

Kể từ khi thực dân Pháp nổ súng tấn công đại đồn Chí Hòa rồi lần lượt xâm chiếm lục tỉnh Nam Kỳ, nhiều sĩ phu yêu nước đã chiêu mộ nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa, như Trương Định, Trần Xuân Hòa, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Tấn Kiều, Nguyễn Trung Trực, Âu Dương Lân, Bùi Quang Diệu, Trương Quyền, Phan Văn Đạt, Trần Văn Thành, Trần Thiện Chánh, Đỗ Đăng Tàu, Lê Văn Sanh, Lê Huy, Phạm Tiến, Trịnh Quang Nghị, Nguyễn Văn Chất, Lê Công Thành, Tứ Kiệt,… Cuộc đời và sự nghiệp bi hùng của họ và nghĩa quân sống mãi trong lòng nhân dân, nhất là qua những câu chuyện truyền kỳ đời này sang đời khác bằng sự khâm phục, ngưỡng mộ, tôn kính.

Lễ tưởng niệm Thủ khoa Huân.

Lễ tưởng niệm Thủ khoa Huân.

Theo nhà nghiên cứu Võ Phúc Châu ở Tiền Giang, trong số những người cộng tác với Thủ khoa Huân có ông Đồ Phú Kiết, một nhà nho người miền Trung vô Nam Kỳ dạy học và cưới vợ tại chợ Thang Trông, thuộc làng Phú Kiết nay thuộc Chợ Gạo, Tiền Giang. Vào thời điểm Trương Định hy sinh ở căn cứ Đám Lá Tối Trời - Tân Hòa thì Thủ Khoa Huân và Âu Dương Lân còn đang lãnh đạo khởi nghĩa. Đốc phủ Trần Bá Lộc nhận lệnh của Pháp mang quân về đàn áp, biết ông Đồ Phú Kiết là người hay chữ nên mời ra giúp việc văn phòng.

Nhận chân thư ký cho tên Việt gian, chẳng qua ông Đồ muốn bí mật làm nội gián cho quân khởi nghĩa. Ngoài việc trực tiếp giúp nhiều nghĩa quân bớt đau khổ khi bị bắt giam cầm, tra tấn thì ông Đồ còn cung cấp những tin tức quan trọng kịp thời về quân sự, nhất là giúp cho hai tướng soái đứng đầu Nguyễn Hữu Huân và Âu Dương Lân nhiều lần thoát khỏi vòng vây của giặc. Có thể nói ông Đồ Phú Kiết là nhà tình báo đắc lực cho cuộc khởi nghĩa của Thủ Khoa Huân.

Ngoài ông Đồ Phú Kiết, trong số tướng sĩ của Thủ Khoa Huân còn có ông Lê Huy Nhạc vốn nổi danh bắt rắn kỳ tài ở Đồng Tháp Mười, khắc tinh của các loài rắn độc, được mệnh danh là Thầy Rắn. Chẳng ai biết rõ gốc tích xuất thân của ông. Cũng chẳng ai biết ông đến và đi như thế nào. Chỉ biết nơi nào ở Đồng Tháp Mười có rắn dữ cắn hại người là ông xuất hiện.

Vóc người cao lớn, vạm vỡ, nhanh lẹ, ông chạy như bay đuổi theo những con rắn khổng lồ. Người quần nhau dữ dội với rắn. Rung chuyển cả một vùng. Đến khi con rắn đuối sức dần, ông dùng chân đè mạnh lên đuôi rắn, một tay nắm siết chặt cổ rắn, còn tay kia rút dao lạnh lùng mổ bụng giết rắn. Nhiều người đã được ông cứu thoát khỏi lưỡi rắn độc.

Rồi bỗng một ngày Thầy Rắn biến mất khỏi Đồng Tháp Mười. Mãi về sau mọi người mới hay tin ông trở về quê nhà Chợ Gạo đầu quân dưới trướng Thủ Khoa Huân đánh giặc. Có lẽ tài bắt rắn của ông giúp ích cho nghĩa quân rất nhiều ở vùng căn cứ sông nước bùn lầy hoang vu. Đến khi lãnh tụ bị bắt và hy sinh, ông Lê Huy Nhạc quay trở lại Đồng Tháp Mười ẩn náu và bắt rắn cho tới khi qua đời.

Một nhân vật đặc biệt khác là Sáu Hải, có thể là thuộc tướng gần gũi, đắc lực hàng đầu của Thủ Khoa Huân. Sau khi vị lãnh tụ bị giặc bắt tử hình, cuộc khởi nghĩa thất bại, Sáu Hải từ vùng khác tới xin ngụ cư, làm ăn ở xóm Chợ Giữa, xã Vĩnh Kim, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Bề ngoài ông được mô tả là có thân hình to lớn lực lưỡng, bộ mặt trông rất dữ tợn. Mắt lớn. Lông mày rậm. Hàm râu quai nón. Đầy những vết sẹo ở lưng và tay.

Tuy vậy, Sáu Hải nói năng chuẩn mực, hành xử khiêm tốn, chăm chỉ làm lụng. Có điều hành tung ông hơi kỳ bí. Ở giữa căn nhà đơn sơ của ông, nổi bật trên gian thờ là hai chữ “Quan Lớn”. Hàng ngày ông kính cẩn thắp hương vái lạy khấn nguyện. Kỳ lạ hơn, bên vai ông còn luôn mang một báu vật bất ly thân. Đó là cái mõ gỗ lên nước đen bóng. Vì sao?

Về sau người dân địa phương mới vỡ lẽ Sáu Hải vốn là một tướng cướp hoàn lương. Ông được Thủ khoa Huân cảm hóa và trở thành người lính mõ tận tụy trung thành. Trước khi qua đời, ông gọi vợ con đến bên giường bảo đem cái mõ đặt vào khay để trang trọng lên bàn thờ Quan Lớn.

Rồi ông dặn: “Ta vừa chợp mắt, thấy quan lớn Thủ Khoa Huân cho lính đem trát hỏa tốc về gọi, nên ta phải thu xếp đi ngay. Đó là cái mõ của quan lớn giao cho ta khi trước, để mỗi khi hữu sự thì sai ta đánh lên báo hiệu lệnh. Sau khi ta nhắm mắt, cứ mỗi lần cúng giỗ, chỉ cần đánh một hồi mõ, cũng đủ làm cho hồn ta dưới suối vàng mãn nguyện lắm”. Người lính mõ Sáu Hải còn nghiêm khắc căn dặn các con không được làm việc cho Tây: “Nếu không nghe lời, ta sẽ thưa với quan lớn, xin phép về vặn họng cho chết”.

Tinh thần bất hợp tác với giặc Pháp của các cụ Đồ Chiểu, Cử Trị, Thủ Khoa Huân đã ăn sâu vào tâm thức những người lính nghĩa dũng như Sáu Hải. Và nếu như trong chính sử triều Nguyễn chỉ ghi công lao ngắn gọn về Thủ Khoa Huân thì trong dã sử dân gian chẳng những ông mà cả các tướng sĩ thuộc quyền cũng được tái hiện hình ảnh một cách sinh động, sâu sắc bằng sự biết ơn, yêu quý, ngưỡng vọng.

Phan Hoàng

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/tu-lieu-van-hoa/nhung-cau-chuyen-bi-trang-ve-thu-khoa-huan-va-tuong-si-i771497/