Những chân lý của thời đại từ Mùa thu cách mạng - Bài 2: Lời thề thiêng liêng muôn người như một

'Vang vọng giữa Ba Đình/Lời Người thu năm ấy/Màu cờ thu năm ấy/Vẫn đây xanh trời mây' (*). Vang vọng giữa Ba Đình mùa thu năm ấy, sau lời đọc Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng hô vang 'xin thề' của biển người từ khắp mọi miền, từ miền núi đến miền xuôi, từ người già đến em nhỏ về dự lễ. Đó là tiếng 'xin thề' của hồn thiêng sông núi, của hai mươi triệu đồng bào đồng tâm quyết giữ nền độc lập.

Từ Diên Hồng đến Tân Trào, Ba Đình

Khó có con số chính xác về số lượng người dự cuộc mít tinh và biểu tình tại vườn hoa Ba Đình trong buổi lễ “Ngày độc lập” 2/9/1945, trông xa ra, người ta chỉ thấy một biển người trắng xóa, trên đó phấp phới một rừng cờ đỏ, rực rỡ dưới ánh nắng của một ngày thu chói lọi.

Báo Cứu quốc, số ra ngày 5/9/1945 có lời tường thuật về việc tuyên thệ của quốc dân: “3 giờ rưỡi, quốc dân tuyên thệ. Một anh trong Ban Tổ chức đứng trước đài đọc to những lời thề. Mỗi lời đọc xong, toàn thể đồng bào đứng dưới đài đều hô to: “Xin thề!”. Trong cái tiếng “xin thề” đanh thép cất lên bởi hàng triệu người đồng thanh một lúc ấy, biểu lộ rõ cái ý chí bền vững không gì lay chuyển được của cả một dân tộc đã quyết giữ vững lấy tự do, độc lập của mình bằng bất cứ một giá nào”.

Vâng, toàn thể đồng bào, “đủ mặt các giới, các đoàn thể. Các anh em công nhân, các nhân viên sở công, sở tư, các bô lão trong thành phố, các chị em phụ nữ, các anh em thanh niên, các trẻ em nhi đồng… Người ta chú ý tới trong buổi lễ này, lại có cả những người từ trước nay vẫn vắng mặt trong các cuộc biểu tình chính trị: các nhà tu hành. Tất cả, hôm đó, đều không còn giữ sự phân biệt của mọi ngày thường về đẳng cấp, về tín ngưỡng, về nam nữ, về thế hệ… Đến đấy, ai cũng chỉ còn là một dân Việt Nam giữa những người dân Việt Nam khác đi đón nhận lời tuyên bố chính thức về một cuộc độc lập của nước nhà” (Báo Cứu quốc).

Chúng ta là người Việt Nam. Hai tiếng Việt Nam thiêng liêng, thân thương và tự hào có trong dòng máu của mỗi người Việt, có trong hai tiếng “đồng bào” như có người giải thích, “đồng” là cùng, “bào” là bọc, cùng chung một “bào thai”, cùng chung “bọc trứng” trong huyền thoại Mẹ Âu Cơ. Đồng bào là anh em, là “chị ngã em nâng”, là “môi hở răng lạnh”, là “anh em như thể tay chân/Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần”, là “cây một gốc, là con một nhà”, là “Bầu ơi thương lấy bí cùng/Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”…

Một Tổ quốc Việt Nam. Một Nước Việt Nam. Một Dân tộc Việt Nam. Một Tâm hồn Việt Nam. Một Truyền thống Việt Nam. Mỗi người Việt Nam đều yêu tha thiết non sông gấm vóc này, yêu tha thiết quê hương, xứ sở này. Bởi thế, đoàn kết đã trở thành “sợi chỉ đỏ”, “ngọn lửa thiêng” trong mạch nguồn dân tộc, đã trở thành sức mạnh nội sinh, nội hàm để dân tộc ta lướt thắng qua những biến động của thời cuộc, những thử thách của thiên tai, địch họa.

Đoàn kết đã trở thành nguyên do để nhân lên vạn phần sức mạnh. Làm sao mà một dân tộc nhỏ bé lại có thể 3 lần đánh bại vó ngựa Nguyên Mông đã càn quét khắp Á - Âu? Thưa, đó là sức mạnh của “muôn người cùng hô một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng”, “các phụ lão đều nói “đánh” (Hội nghị Diên Hồng, toàn thư quyển V). Làm sao mà một cuộc khởi nghĩa, khởi đi từ một “phụ đạo” - hào trưởng đất Lam Sơn Lê Lợi lại có thể quét sạch quân Minh tàn bạo? Thưa đó là nhờ “Tướng sĩ một lòng phụ tử/Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” (Bình Ngô đại cáo).

Điều gì đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám “long trời, lở đất”? Điều gì đã tạo nên sức mạnh để chỉ trong chưa đầy 1 tháng (23 giờ ngày 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa đến cuối tháng 8/1945), Nhân dân đã dành được chính quyền trong cả nước? Một trong những sức mạnh làm nên chiến thắng của Cách mạng Tháng Tám chính là sức mạnh của Nhân dân, sức mạnh đoàn kết, đồng lòng của toàn dân tộc.

Ngay từ tháng 10/1941, trong Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ của mình, Mặt trận Việt Minh đã nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc. Tuyên ngôn của Mặt trận nêu: “Chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”, đồng thời khẳng định: “Coi quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy, Việt Minh sẵn sàng giơ tay đón tiếp những cá nhân hay đoàn thể, không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia, miễn thành thực muốn đánh đuổi Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do và độc lập”.

Chính với chủ trương đoàn kết rộng rãi hết thảy người Việt Nam yêu nước đó, trong không khí sục sôi cách mạng, chiều ngày 16/8/1945, tại đình Tân Trào (tỉnh Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh đã khai mạc Đại hội đại biểu quốc dân (nay gọi là Quốc dân Đại hội Tân Trào). Trong hoàn cảnh ngặt nghèo nhưng Đại hội đã quy tụ hơn 60 đại biểu đại diện cho cả 3 miền Bắc - Trung - Nam, đại diện cho các ngành, các giới, các dân tộc, các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc và một số Việt kiều ở Thái Lan và Lào. Đại hội đã bàn bạc, thống nhất và quyết định những vấn đề lớn cho việc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về Nhân dân.

Quốc dân Đại hội Tân Trào là Đại hội của lòng dân, Đại hội của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Đại hội thể hiện sự “đồng tâm nhất trí”, chung một bầu khí nóng, chung một sự quyết tâm, nhiệt huyết đứng lên làm cách mạng, giành lấy quyền độc lập, tự do cho dân tộc. Từ Diên Hồng đến Tân Trào, Ba Đình, trong bất cứ hoàn cảnh nào, sự đồng thuận của lòng dân, sự đồng lòng của Nhân dân, muôn người như một đã là sức mạnh khiến cho không một thế lực ngoại bang nào có thể khuất phục nổi dân tộc ta.

Đồng lòng, dân tộc ta sẽ làm nên những kỳ tích mới

Sinh thời, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thấu hiểu và vận dụng một cách sâu sắc sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, là người kế thừa xuất sắc triết lý “nước lấy dân làm gốc” của dân tộc. Người khẳng định: “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân”; “Nhờ đại đoàn kết mà trong bao nhiêu thế kỷ, Nhân dân Việt Nam đã bảo vệ được độc lập, tự do của mình. Nhờ đại đoàn kết mà Nhân dân Việt Nam đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân, làm Cách mạng Tháng Tám thành công”.

Đình Tân Trào - nơi diễn ra Quốc dân Đại hội ngày 16/8/1945, với sự tham dự của hơn 60 đại biểu từ 3 miền Bắc - Trung - Nam, kiều bào. (Ảnh: HT)

Người chỉ rõ: “Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân”. “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài... Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ Nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Trong suốt tiến trình lãnh đạo Cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là nguồn sức mạnh quyết định thắng lợi sự nghiệp cách mạng.

“Từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, rồi Đại thắng Mùa Xuân 1975 cho tới hiện nay, tất cả những mốc son chói lọi đó đều là kết tinh của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc - từ lòng yêu nước nồng nàn đến ý chí “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Chính sức mạnh Nhân dân, sự đồng tâm hiệp lực của hàng triệu con người Việt Nam yêu nước, đã làm nên kỳ tích đánh bại những đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới trong thế kỷ XX. Chúng ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày hôm nay phần nhiều do sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc bồi đắp nên”, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định (Bài viết: Sức mạnh của đoàn kết, 29/6/2025).

Sau 50 năm đất nước thống nhất “giang sơn thu về một mối”, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu lớn lao, chúng ta đã có đầy đủ “thế” và “lực” để bước vào kỷ nguyên mới với những hoài bão, khát vọng lớn lao. Thời cơ để dân tộc ta “bước tới đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc năm châu” là rất lớn nhưng khó khăn, thách thức, trở ngại cũng không ít. Hơn lúc nào hết, chỉ có tinh thần đoàn kết, “trên dưới đồng lòng”, hễ là người Việt Nam, không cứ ở trong hay ngoài nước đều có trách nhiệm “ghé vai”, gánh vác lấy sứ mệnh chung với niềm tin vào tương lai rạng rỡ của dân tộc.

Tấm bia di tích ở nhà ông Quách Hy (quan lang Mường Khói) - địa điểm liên lạc, hội họp của cán bộ và quần chúng cách mạng từ năm 1940. (Ảnh: HT)

Trong những ngày mùa thu tháng Tám, chúng tôi lên đường tìm về chiến khu Mường Khói - căn cứ địa cách mạng của xứ Mường (Hòa Bình, nay là Phú Thọ). Trong số hơn 60 đại biểu đại diện cho quốc dân đồng bào dự Quốc dân Đại hội Tân trào có một người là quan lang xứ Mường. Ông là Quách Hy, quan lang Mường Khói (Lạc Sơn, Hòa Bình).

Xuất thân từ dòng “nhà lang” nhưng Quách Hy nhận thấy rõ mình là một người dân mất nước. Một cụ đồ nho dạy ông học thường bảo: “Ta không thể làm tớ thằng Tây mãi được, chúng nó ác lắm, phải đánh đuổi chúng nó đi”. Câu nói đầy khí tiết đó cộng với những câu chuyện chống Pháp của các vị tiền bối đã theo đuổi ông cho mãi đến khi ông làm quan lang, làm chánh tổng, làm bang tá xứ Mường.

Sớm được giác ngộ cách mạng, khơi dậy lòng yêu nước, ông Quách Hy đã từ bỏ tất cả để đi theo tiếng gọi của Việt Minh. Niềm vui sướng được gặp lãnh tụ Hồ Chí Minh, thấm thía những lời căn dặn của Người tại khu giải phóng Tân Trào, được ông ghi lại trong hồi ký: “Những lời lẽ của cụ càng thôi thúc, động viên chúng tôi nhanh chóng trở về địa phương, cùng đồng bào tham gia cách mạng đánh đuổi bọn cướp nước, giành lại độc lập, tự do. Tất cả chúng tôi đều hứa quyết tâm làm đúng những lời căn dặn của cụ”.

(Còn tiếp)

Đ.Anh - H.Toản

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/nhung-chan-ly-cua-thoi-dai-tu-mua-thu-cach-mang-bai-2-loi-the-thieng-lieng-muon-nguoi-nhu-mot.html