Những điểm mới của LUẬT SĨ QUAN QĐND VIỆT NAM sửa đổi
Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/12/2024.
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 8, sáng 28/11, với 458/459 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 95,62% tổng số đại biểu, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
Theo đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 1/12/2024.
Dự thảo luật sau khi tiếp thu, chỉnh lý có 3 điều; so với dự thảo luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ tám, dự thảo luật tiếp thu, chỉnh lý tăng 1 điều.
Tăng tuổi phục vụ tại ngũ (tuổi nghỉ hưu) của sĩ quan từ 1 - 5 tuổi
Theo báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, một số ý kiến đề nghị làm rõ quy định cấp phó trong hệ thống chức danh cơ bản của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; bổ sung chức danh, chức vụ tương đương với các chức danh, chức vụ cơ bản trong bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước và một số chức vụ chỉ huy, quản lý cơ quan, đơn vị chưa được quy định tại khoản 1 Điều này; rà soát, bổ sung cho phù hợp với biên chế tổ chức hiện nay do sáp nhập, thành lập đơn vị mới; cân nhắc từ “cơ bản” tại tiêu đề khoản 1.
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Tấn Tới cho biết, quân đội có 6.277 chức vụ, 12.310 chức danh nên không thể quy định hết các chức vụ, chức danh trên trong Luật. Vì vậy, khoản 1 Điều 1 dự thảo Luật chỉ quy định chức vụ, chức danh cơ bản.
Với các chức vụ, chức danh chưa được quy định tại khoản 1 Điều này, thực hiện Kết luận của cơ quan có thẩm quyền tại Văn bản số 10809-CV/VPTW ngày 06/8/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật sửa đổi, bổ sung lần này không quy định những vấn đề cụ thể về tổ chức bộ máy và quân hàm cấp Trung tướng trở xuống trong lực lượng vũ trang mà giao Chính phủ và Bộ Quốc phòng quy định theo thẩm quyền tại khoản 1 Điều 1 dự thảo Luật (nội dung sửa đổi khoản 2 Điều 11 Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện hành) để bảo đảm tính linh hoạt trong tổ chức thực hiện và yếu tố bí mật quốc phòng, quân sự.
Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho chỉnh lý về kỹ thuật và giữ nội dung như dự thảo Luật trình Quốc hội.
Về khoản 2 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 13 - tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan), theo báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, một số ý kiến đề nghị quy định tuổi của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam thống nhất theo Bộ luật Lao động và Luật Công an nhân dân.
Đề nghị quy định tuổi nghỉ hưu phù hợp cho từng quân, binh chủng, phù hợp với tính chất, môi trường, địa bàn công tác.
Giao thẩm quyền cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định về độ tuổi nghỉ hưu ở một số chức danh chỉ huy, quản lý nhưng không cao hơn độ tuổi theo cấp bậc quân hàm.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, do cơ cấu, tổ chức, tính chất, nhiệm vụ, đối tượng tác chiến của Quân đội và Công an khác nhau.
Nếu tăng tuổi nghỉ hưu của sĩ quan Quân đội bằng tuổi nghỉ hưu của sĩ quan Công an nhân dân hoặc bằng tuổi của người lao động theo Bộ luật Lao động sẽ không bảo đảm cho sĩ quan, nhất là sĩ quan ở các đơn vị sẵn sàng chiến đấu có đủ sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ.
Hằng năm, Quân đội vẫn phải tuyển sinh quân sự để sắp xếp và trẻ hóa đội ngũ cán bộ cấp phân đội, nếu tăng thêm tuổi so với dự thảo luật sẽ gây dôi dư, ùn tắc trong đội ngũ sĩ quan.
Việc tăng tuổi nghỉ hưu của sĩ quan như dự thảo luật vừa giữ gìn được đội ngũ sĩ quan được đào tạo cơ bản, có bản lĩnh, trình độ, kinh nghiệm, sức khỏe trong chỉ huy, quản lý, nghiên cứu, tham mưu và số cán bộ có chuyên môn trình độ cao để có nhiều thời gian phục vụ quân đội, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội hiện đại; bảo đảm sĩ quan cơ bản có đủ số năm tham gia bảo hiểm xã hội để được hưởng lương hưu mức tối đa 75%.
Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về hạn tuổi cao nhất của sĩ quan phục vụ tại ngũ như dự thảo luật.
Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam cũng cho biết, có ý kiến đề nghị quy định đối với cán bộ chỉ huy cấp chiến lược thì thực hiện theo độ tuổi quy định, cán bộ chỉ huy ở các đơn vị tập trung, đủ quân, trực tiếp sẵn sàng chiến đấu thì độ tuổi phục vụ sẽ do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan gắn liền với cấp bậc quân hàm, phù hợp với hạn tuổi cao nhất của sĩ quan giữ chức vụ chỉ huy, quản lý đơn vị và được quy định thống nhất.
Hệ thống tổ chức và cấp bậc quân hàm sĩ quan Quân đội được tổ chức theo hình tháp, nhu cầu phát triển lên chức vụ, cấp bậc quân hàm càng cao thì càng bị thu hẹp, sĩ quan giữ chức vụ và cấp bậc quân hàm thấp phải trẻ hơn sĩ quan giữ chức vụ và cấp bậc quân hàm cao.
Vì vậy, đối với sĩ quan chỉ huy, quản lý đơn vị, thời gian giữ mỗi chức vụ chỉ ổn định trong một thời gian nhất định và phải thay đổi để trẻ hóa, hạn chế tình trạng ùn tắc ở cấp trên, thiếu hụt cấp dưới.
Do đó, để bảo đảm chất lượng, sự phát triển của sĩ quan và cân đối về số lượng cán bộ giữa các cấp, các chức nên độ tuổi phải được giãn cách hợp lý.
Việc điều chỉnh tăng tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan như dự thảo luật nhằm bảo đảm phù hợp với thực tiễn và lao động đặc thù nêu trên.
Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam cũng cho biết, có ý kiến đề nghị đánh giá tác động đến quỹ bảo hiểm xã hội, làm rõ tỷ lệ hưởng lương đối với sĩ quan sau khi tăng tuổi phục vụ tại ngũ từ 1 đến 5 tuổi.
Làm rõ vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông tin: Sau khi tăng hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất đối với sĩ quan từ 1 đến 5 tuổi, sẽ tăng thêm thời gian đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội ở mức đóng cao nhất đối với sĩ quan trước khi nghỉ hưu, làm gia tăng sự tích lũy đối với quỹ bảo hiểm xã hội, tăng thêm sự bảo toàn, tăng trưởng và cân đối quỹ trong dài hạn.
Điều này cũng thể hiện đầy đủ các nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững; bảo đảm phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội góp phần an sinh xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền vững đất nước.
Cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan
Về khoản 3 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 15 - Cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan), theo báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, một số ý kiến đề nghị cân nhắc quân hàm cấp tướng tương xứng giữa Quân đội và Công an ở các tỉnh, thành phố lớn, trọng điểm; quy định rõ số lượng cấp tướng đối với từng cấp hàm; quy định cấp bậc quân hàm cao nhất từ Trung tướng trở xuống (điểm c, điểm d) như luật hiện hành.
Đồng thời, đề nghị nâng cấp bậc quân hàm đối với cấp cơ sở; bổ sung cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của cơ quan quân sự cấp tỉnh, cấp huyện; quy định trần quân hàm tương đồng giữa Quân đội và Công an ở cấp huyện.
Về các nội dung nêu trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị tại Thông báo số 185-TB/TW ngày 28/10/2014: Quân đội không quá 415 vị trí có trần quân hàm cấp Tướng; Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc chủ trương của Bộ Chính trị, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội bảo đảm số lượng vị trí có cấp bậc quân hàm cấp tướng theo quy định.
Nếu bổ sung số lượng Thượng tướng cho chức vụ Phó tổng Tham mưu trưởng và quy định trần quân hàm cấp tướng cho Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự của 11 tỉnh trọng điểm như Luật Công an nhân dân (không quy định trần quân hàm cấp tướng cho Chính ủy) thì không phù hợp với Nghị quyết số 51-NQ/TW và vượt quá số lượng cấp tướng theo quy định của Bộ Chính trị.
Như vậy, sẽ tác động đến tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của Chỉ huy trưởng, Chính ủy Bộ chỉ huy quân sự, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố khác và các chức danh tương đương khác trong toàn quân như Sư đoàn trưởng, Chính ủy Sư đoàn.
Mặt khác, không bảo đảm nguyên tắc cấp bậc quân hàm sĩ quan của cấp trên cao hơn cấp bậc quân hàm sĩ quan của cấp dưới, dẫn đến bất cập trong chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.
Hiện nay, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đang nghiên cứu, đề xuất sửa đổi Nghị định và sửa đổi Thông tư về chức vụ, chức danh của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trong đó xem xét, tính toán kỹ lưỡng cấp bậc quân hàm cao nhất của sĩ quan trong toàn quân, bổ sung quy định cụ thể số lượng và từng vị trí có cấp bậc quân hàm Trung tướng, Phó đô đốc Hải quân và Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân bảo đảm chặt chẽ, minh bạch và không vượt quá số lượng theo kết luận của Bộ Chính trị.
Đồng thời, sửa đổi những nội dung về chức vụ, chức danh tương đương có cấp bậc quân hàm cao nhất là cấp tướng, cấp tá, cấp úy, bảo đảm chặt chẽ, phù hợp với nội dung sửa đổi tại dự thảo luật và cơ cấu, tổ chức biên chế, tính chất nhiệm vụ, tình hình thực tiễn của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân.
Về khoản 5 Điều 1 (Sửa đổi, bổ sung Điều 18 - Thăng quân hàm, nâng lương sĩ quan trước thời hạn), theo báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày 26/11/2024, Chính phủ có Công văn số 812/CP tham gia ý kiến về dự thảo luật.
Chính phủ có góp ý tại khoản 5 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 18. Thăng quân hàm, nâng lương sĩ quan trước thời hạn), đề nghị sửa đổi như sau: “a) Trong chiến đấu lập chiến công xuất sắc hoặc trong công tác được khen thưởng” vì tại khoản 3 Điều này đã giao Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể theo thẩm quyền nên chỉnh lý như trên để bảo đảm linh hoạt, không quy định những vấn đề cụ thể trong luật và phù hợp với quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, lý do Chính phủ đề xuất chỉnh lý là có cơ sở, luật chỉ quy định những nguyên tắc chung và giao Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể theo thẩm quyền.
Quy định này không mâu thuẫn, chồng chéo với pháp luật có liên quan, bảo đảm phù hợp với các quy định khác liên quan trong dự thảo luật và với pháp luật về thi đua, khen thưởng, thuận lợi trong tổ chức thực hiện.
Để bảo đảm chặt chẽ và có sự đồng thuận cao, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan soạn thảo và các cơ quan liên quan họp nghiên cứu và thống nhất tiếp thu sửa đổi điểm a khoản 1 Điều 18 Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam như đề nghị của Chính phủ.
Đồng thời, do đây là nội dung mới, nên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo xin ý kiến và đã được sự nhất trí của các đồng chí thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho quy định như dự thảo luật trình Quốc hội thông qua.
Về khoản 14 Điều 1 (bổ sung khoản 5 vào sau khoản 4 Điều 47 - Trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp), một số ý kiến đề nghị đánh giá quy định này để bảo đảm thống nhất, đồng bộ với Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Quy hoạch; đánh giá những bất cập về trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Quy hoạch nếu giao cho lực lượng Quân đội thực hiện; làm rõ nguồn lực để thực hiện, khó khăn, vướng mắc về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện chính sách về nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông tin: Luật Đất đai, Luật Nhà ở giao UBND cấp tỉnh lập kế hoạch phát triển nhà ở cho lực lượng vũ trang nhưng chưa quy định việc bố trí quỹ đất và thu hồi đất để giao cho Bộ Quốc phòng thực hiện, trong khi Bộ Quốc phòng có các cơ quan chuyên môn về đầu tư, xây dựng, đủ năng lực để quản lý và triển khai thực hiện.
Vì vậy, cần có “cơ chế đặc biệt” để Bộ Quốc phòng triển khai thực hiện trên thực tế; việc chỉnh lý như dự thảo luật là bổ sung chủ thể thực hiện chính sách, pháp luật về nhà ở xã hội cho Quân đội, giảm khó khăn, áp lực cho chính quyền địa phương và đáp ứng nhu cầu cấp bách về nhà ở cho các đối tượng trong Quân đội là phù hợp với thực tiễn.
Trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý, bổ sung khoản 13 Điều 1 như dự thảo luật trình Quốc hội thông qua.
Về việc sửa đổi quy định tại Điều 25 Luật Công an nhân dân trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, có ý kiến đề nghị sửa đổi Điều 25 Luật Công an nhân dân để thống nhất về thẩm quyền quy định cụ thể vị trí có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Thiếu tướng và cấp bậc hàm đối với các chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp tướng của đơn vị thành lập mới, đơn vị được tổ chức lại.
Trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp với cơ quan soạn thảo, các cơ quan của Quốc hội, Bộ Công an và các cơ quan hữu quan thống nhất bổ sung 1 Điều (Điều 2) sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân số 37/2018/QH14 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 21/2023/QH15 gồm 2 khoản: Khoản 1: Sửa đổi, bổ sung Điều 25 và khoản 2: Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 29 như dự thảo luật trình Quốc hội thông qua.
Hạn tuổi cao nhất của sĩ quan phục vụ tại ngũ (tuổi nghỉ hưu) theo cấp bậc quân hàm:
Cấp úy: 50;
Thiếu tá: 52;
Trung tá: 54;
Thượng tá: 56;
Đại tá: 58;
Cấp tướng: 60
Cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan được quy định như sau:
- Đại tướng, số lượng không quá 3, bao gồm: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Tổng Tham mưu trưởng; Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị;
- Thượng tướng, Đô đốc Hải quân, số lượng không quá 14, bao gồm: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng có cấp bậc quân hàm cao nhất là Thượng tướng, Đô đốc Hải quân: số lượng không quá 6; Phó tổng Tham mưu trưởng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị: Mỗi chức vụ số lượng không quá 3; Giám đốc, Chính ủy Học viện Quốc phòng;
- Các chức vụ, chức danh có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Phó đô đốc Hải quân; Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân: số lượng không quá 398.