Những giải pháp thúc đẩy kinh tế di sản
Kinh tế di sản là ngành kinh tế có nhiều tính đặc thù. Vì vậy cần coi trọng tính đặc thù tác động đến thực tiễn, từ đó xây dựng các chính sách, giải pháp phù hợp.
Trong dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV có đề cập đến vấn đề "Bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế di sản".
Theo Tiến sĩ Bùi Hữu Sơn, kinh tế di sản là một ngành kinh tế non trẻ. Các nhà khoa học trên thế giới mới đề cập đến kinh tế di sản vào thập niên 1990. Các nhà khoa học Việt Nam mới nghiên cứu trong một vài năm gần đây, trong ngành kinh tế này có nhiều loại hình khác nhau như: du lịch di sản, các sản phẩm nông nghiệp OCOP, ngành công nghiệp văn hóa “ăn theo” biểu tượng và giá trị của di sản, ẩm thực truyền thống, nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống...

Khu du lịch sinh thái Tràng An. Ảnh: Phạm Hải
Ông Bùi Hữu Sơn cho rằng, mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy di sản văn hóa là mối quan hệ hữu cơ, hai chiều tạo nên hai mặt thống nhất của một quá trình. Bảo tồn di sản là nền tảng để phát huy, không có bảo tồn, di sản sẽ mất tính nguyên bản, không còn cả giá trị để khai thác. Phát huy là nguồn động lực để bảo tồn, phát huy làm cho di sản sống trong cộng đồng, không bị lãng quên.
Mặt khác, mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy là một sự cân bằng động. Quá trình bảo tồn giúp di sản duy trì, bảo vệ được giá trị. Ngược lại, phát huy làm tái sinh giá trị trong bối cảnh mới. Nếu chỉ bảo tồn mà không phát huy, giá trị di sản sẽ ngưng tụ và chết. Nhưng chỉ phát huy mà thiếu bảo tồn thì sẽ làm sai lệch giá trị di sản. Vì vậy bảo tồn và phát huy là một quá trình luôn gắn liền với nhau, không tách rời nhau.
Trong khi đó, kinh tế di sản là một lĩnh vực kinh tế đặc biệt, dựa trên việc khai thác và phát huy các giá trị của di sản văn hóa và di sản thiên nhiên để tạo ra nguồn lực phát triển kinh tế, đồng thời gắn liền với công tác bảo tồn di sản.
Bảo tồn phát huy di sản và kinh tế di sản cũng có mối quan hệ hữu cơ tác động 2 chiều đến nhau. Bảo tồn và phát huy di sản sẽ tạo ra giá trị, lan tỏa giá trị. Từ đó, các giá trị sẽ trở thành nguồn lực phát triển kinh tế di sản. Giá trị thiêng hóa gắn với lòng tôn kính tổ tiên, thần linh, anh hùng dân tộc, sẽ tạo ra nguồn lực cho du lịch tôn giáo tín ngưỡng. Bản sắc tộc người ẩn chứa trong nhà cửa, ẩm thực, diễn xướng... cũng tạo ra tài nguyên du lịch di sản, làm cho sản phẩm du lịch mang đặc trưng độc đáo, riêng biệt với các sản phẩm khác. Ngược lại kinh tế di sản là nguồn thu góp phần bảo tồn và phát huy di sản thuận lợi.
“Kinh tế di sản thực sự là bệ đỡ trong vấn đề bảo tồn và phát huy di sản được phát triển. Kinh tế di sản vừa hỗ trợ nguồn lực cho cộng đồng, doanh nghiệp vừa đóng góp cho quỹ bảo tồn di sản phát huy nhiều giá trị. Mặt khác, kinh tế di sản còn tạo nguồn thu cho người dân làm du lịch. Do đó kinh tế di sản thực sự là nguồn lực khuyến khích các cộng đồng tham gia du lịch. Đồng thời, kinh tế di sản còn tạo điều kiện cho các nhà sáng tạo, các nhà tư vấn tạo ra các sản phẩm du lịch mới, sáng tạo những giá trị mới của di sản”, ông Sơn khẳng định.
Theo ông, các ngành công nghiệp sáng tạo (công nghiệp điện ảnh, công nghiệp âm nhạc, công nghiệp làm đồ thủ công mỹ nghệ...) đều có đặc điểm chung là xuất phát từ giá trị của di sản. Vì thế các ngành công nghiệp này đều mang dấu ấn di sản có thể coi là một bộ phận của kinh tế di sản.
Kinh tế di sản muốn phát triển đòi hỏi phải có năng lực sáng tạo trên nền tảng di sản. Do đó di sản sẽ tạo ra nguồn tài sản cho sự sáng tạo. Ngược lại kinh tế di sản còn hỗ trợ nguồn lực kinh tế, kích thích sự sáng tạo phát triển. Như vậy, bảo tồn - phát huy giá trị di sản và kinh tế di sản đều có mối quan hệ tương hỗ. Mối quan hệ này thúc đẩy quá trình phát triển của kinh tế di sản cũng như nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị di sản.
Theo ông Bùi Hữu Sơn, phải xác định phát triển kinh tế di sản bền vững, là định hướng lâu dài, xuyên suốt, muốn vậy phải dựa theo 4 trụ cột: văn hóa - môi trường - xã hội - kinh tế.
Vì thế, theo ông, giải pháp để phát triển kinh tế di sản, trước mắt, cần bổ sung và sửa đổi Luật Di sản văn hóa, Luật Du lịch, trong đó bổ sung các điều, khoản về vai trò của cộng đồng với bảo tồn di sản, vai trò và quyền lợi của cộng đồng trong phát triển kinh tế di sản. Nêu rõ các điều, khoản về sự hài hòa giữa bảo tồn di sản văn hóa với phát triển du lịch, đặc biệt chú trọng đến quyền sở hữu của di sản...
Thứ hai, xây dựng chính sách linh hoạt, hiệu quả về trùng tu, tôn tạo di tích, về bảo tồn di sản: chủ động phân cấp quản lý di tích cho chính quyền và cộng đồng cư dân địa phương phù hợp với thực tiễn. Mặt khác, xây dựng chính sách xã hội hóa và trùng tu tôn tạo di tích, trong đó quy định về quyền lợi và trách nhiệm của người đóng góp vốn trùng tu tôn tạo, quyền lợi và trách nhiệm của chính quyền địa phương quản lý di tích.
Thứ ba, xây dựng Quỹ trùng tu tôn tạo di sản, trong đó quy định rõ nguồn thu từ kinh tế di sản đóng góp, các nguồn thu do doanh nghiệp, nhà hảo tâm ủng hộ cho Quỹ trùng tu tôn tạo di sản. Xây dựng các quy định về quản lý Quỹ mang tính chất minh bạch, công khai, khoa học và hiệu quả.
Thứ tư, tăng cường nghiên cứu kinh tế di sản và quy hoạch kinh tế di sản bởi nó là ngành kinh tế mới nhưng sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế. Kinh tế di sản là động lực quan trọng để bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc.
Vì vậy, cần phải chú trọng nghiên cứu khoa học về kinh tế di sản. Trước hết là cần nhận diện các loại hình kinh tế trong ngành kinh tế di sản. Từ đó, phân tích đặc trưng, đặc điểm cũng như giá trị của kinh tế di sản, xử lý các mâu thuẫn phát sinh khi phát triển kinh tế di sản ở cơ sở. Mặt khác, cũng cần phải tiến hành quy hoạch các loại hình trong ngành kinh tế di sản. Xây dựng cơ chế chính sách nhằm khuyến khích, phát triển kinh tế di sản theo ba nguyên tắc: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa.
“Vận dụng ba nguyên tắc văn hóa: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa nhằm tìm hiểu đặc điểm, cơ chế chung như quan điểm và giải pháp phát triển của kinh tế di sản ở Việt Nam. Từ đó hy vọng kinh tế di sản Việt Nam sẽ được nhiều nhà khoa học coi trọng, góp phần tạo động lực cho văn hóa Việt Nam phát triển”, ông Sơn góp ý.
Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/nhung-giai-phap-thuc-day-kinh-te-di-san-2458144.html











