Những nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước về Thục Phán - An Dương Vương
Vấn đề nguồn gốc Thục Phán - An Dương Vương và nước Âu Lạc là một trong những nội dung cốt lõi trong lịch sử Việt Nam. Vì vậy từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học cả trong và ngoài nước.
Trong quá trình nghiên cứu, các học giả đều ghi nhận: Nước Âu Lạc kế tiếp nước Văn Lang và An Dương Vương kế ngôi Vua Hùng là sự kiện, nhân vật lịch sử có thật. Song về nguồn gốc - lai lịch của Thục Phán - An Dương Vương còn có nhiều ý kiến cần làm rõ.
Các tác giả đầu tiên đề cập đến Thục Phán - An Dương Vương là các học giả thời cổ đại ở Trung Quốc. Cuốn sách đầu tiên là bộ Sử ký của Tư Mã Thiên, có chép… “Mân Việt ở phía Đông mấy nghìn người mà cũng xưng vương, Âu Lạc ở phía Tây, nước cởi trần mà cũng xưng vương”. Trong sách Giao Châu ngoại vực ký và cuốn Quảng Châu ký viết: “Giao Chỉ có ruộng Lạc, theo nước thủy triều lên xuống, dân dựa vào đó trồng trọt để hưởng hoa lợi, vì thế dân có tên là Lạc dân, có Lạc vương, Lạc hầu, các huyện tự gọi là Lạc tướng, có ấn đồng thao xanh, tức là chức Lệnh trưởng ngày nay. Sau Thục Vương Tử đem quân đánh Lạc hầu, tự xưng là An Dương Vương, đặt trị sở ở huyện Phong Khê. Sau này, Nam Việt vương Úy Đà đánh phá An Dương Vương, lệnh cho hai Điển sứ trông coi dân hai huyện Giao Chỉ, Cửu Chân”.
Đến cuốn Cựu Đường thư cũng ghi: “Thục Vương đem ba vạn quân đánh và diệt được Hùng Vương… nhưng sau đó Thục Vương bị quân Úy Đà giết và kiêm tính vùng đất đó”.
Sách Hoa Dương quốc chí: Mùa Thu năm thứ 5 Chu Thận Vương (tức là niên hiệu Hậu Nguyên thứ 9 đời Tần Huệ Văn Vương, năm 316 trước công nguyên), các quan Đại phu của Tần... từ Thạch Ngưu Đạo đánh Thục, Thục Vương từ Hà Minh chống cự lại, nhưng bị thua trận. Vương chạy trốn, đến Vũ Dương bị quân Tần sát hại. Các quan văn, quan võ, cùng Thái tử lui về Phùng Hương, chết ở Bạch Lộc Sơn. Họ Khai Minh bị diệt vong. Năm Tần Thủy Hoàng thứ 33 (tức năm 214 trước công nguyên) bắt đầu bình định được Lĩnh Nam, đặt ra ba quận, Triệu Đà khi đó mới đóng quân tại Lĩnh Nam, cách thời điểm Khai Minh Vương bị diệt vong đã 102 năm, Vương Tử của họ làm thế nào còn lại trên nhân gian?. Tác giả cho rằng Thục Vương Tử đã bị đánh bại, khó có cơ hội tìm được đường thông xuống tận vùng Giao Chỉ xa xôi.
Với những lý do trên, tác giả Lam Hồng Ân cho rằng: vùng Tả Giang của Trung Quốc cổ đại có một nước gọi là Nam Cương, thống hạt 9 bộ, là vùng phía Nam Quảng Tây và Cao Bằng của Việt Nam ngày nay. Vua nước này tên là Thục Chế, con là Thục Phán… Sau này, Thục Phán đem quân tiến công Văn Lang ở phương Nam, Văn Lang hàng phục, Thục Phán bèn xưng là An Dương Vương. Và tác giả kết luận: Thục Vương Tử không phải là tộc Thục của Khai Minh thị, mà thuộc các dân tộc ngữ hệ Choang cùng nền văn hóa với Dạ Lang.
Tại Việt Nam cũng quan tâm nghiên cứu tìm hiểu, nghiên cứu về Thục Phán - An Dương Vương. Việt sử lược (Đại Việt sử lược), bộ sách Việt Nam đầu tiên ghi về An Dương Vương như sau: “Cuối đời Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay. Phán đắp thành ở Việt Thường, xưng hiệu là An Dương Vương, không thông hiếu với nhà Chu”. Các tác giả của bộ Đại Việt sử ký toàn thư trong Kỷ nhà Thục, An Dương Vương chép: “Họ Thục, tên húy là Phán, ở ngôi 50 năm, đóng đô ở Phong Khê (nay là thành Cổ Loa)”. Từ đó trở đi, các nhà sử học của Việt Nam luôn theo quan điểm của Việt sử lược.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục là bộ quốc sử lớn nhất triều Nguyễn, chép về Kỷ nhà Thục đã nêu lên sự bất hợp lý về thời gian và đưa ra việc phản vấn như sau: “Nước Thục từ năm thứ 5 đời Chu Thận Tĩnh vương (năm 316 trước công nguyên) đã bị Tần diệt rồi, làm gì còn có vua nữa? Huống chi từ Thục đến Văn Lang còn có đất Kiền Vi, đất Dạ Lang, đất Củng, đất Tác và đất Nhiễm cách nhau hàng hai, ba ngàn dặm, có lẽ nào Thục vượt qua được các nước ấy mà sang đánh lấy nước Văn Lang”.
Sử gia Nguyễn Văn Siêu trong bộ Đại Việt địa dư toàn biên lên án gay gắt sự nhầm lẫn của sử cũ sai lầm đối với ghi chép về An Dương Vương và nước Âu Lạc, đồng thời yêu cầu cần phải đính chính lại: Bước sang thế kỷ XX, xu hướng hoài nghi thuyết An Dương Vương là người nhà Thục, Trung Quốc ngày càng rõ hơn, ngay từ năm 1914, Hoàng Cao Khải trong sách Việt sử yếu nêu lên sự bất hợp lý: “Nói về An Dương Vương thì không ai biết được Vương là người như thế nào? Và cũng không ai biết rõ quê quán của Vương ở đâu? Căn cứ vào cựu sử ghi chép thì Vương tên là Phán, người ở đất Ba Thục. Nhưng Ba Thục cách nước ta đến hai, ba ngàn dặm, rừng sâu, núi thẳm, điệp điệp trùng trùng, tuyệt vời cách trở, đường sá lại chưa được khai thông, có lý nào Vương lại đến thẳng nước ta một cách mau chóng như vậy?”.
Sử gia Trần Trọng Kim viết Việt Nam sử lược xuất bản lần đầu vào năm 1921 cũng nhận định Thục An Dương Vương “là một họ Thục gần nước Văn Lang, không phải là Thục bên Tàu”. Học giả Ngô Tất Tố khẳng định: Nước Nam không có ông An Dương Vương nhà Thục.
Trong quá trình nghiên cứu, xuất hiện thêm một giả thuyết mới của các sử gia Trần Quốc Vượng và Hà Văn Tấn cho rằng: Thục Vương được nhắc đến trong các thư tịch cổ không phải vua Thục ở nước Ba Thục mà là Tù trưởng của bộ lạc Khương di cư từ đất Thục xuống phía Nam và tự xưng là Thục Vương. Họ đi xuống Quảng Tây và đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam sống chung với người Tây Âu ở vùng này. Nước Âu Lạc được lập ra gồm hai thành phần cư dân Tây Âu và Lạc Việt.
Việc nghiên cứu đang được xúc tiến tích cực và phát hiện thêm tư liệu, đó là năm 1963, nhà dân tộc học Lã Văn Lô sưu tầm được, sau đó dịch và công bố truyền thuyết “Cẩu chủa cheng vùa” (tiếng dân tộc Tày - dịch ra là: Chín chúa tranh vua) của dân tộc Tày ở Cao Bằng. Truyền thuyết cho biết về một người tên là Thục Chế, làm vua nước Nam Cương ở Cao Bằng, Quảng Tây mà vùng trung tâm hiện thuộc về Hòa An, Cao Bằng. Cuối đời Hùng Vương, Thục Chế chết, con trai là Thục Phán còn ít tuổi được nối ngôi vua, khi đó chín chúa Mường trong nước Nam Cương nhân cơ hội đã đem quân về đòi Thục Phán phải chia đất và nhường lại ngôi vua. Thục Phán tuy còn nhỏ tuổi, nhưng đã xử lý rất thông minh, đưa ra một kế sách đua tài, quy ước ai chiến thắng được giành ngôi vua. Trong khi thi, Thục Phán đã dùng mưu khiến cho các chúa Mường đều không thể giành được chiến thắng. Cuối cùng, chỉ duy nhất Thục Phán được mọi người mến mộ, ủng hộ, quy phục.

Dấu tích thành Bản Phủ tại xóm Hồng Quang 1, xã Hưng Đạo (Thành phố). Ảnh: Hồng Xiêm
“Hiện tại, còn lại dấu vết của một tòa thành ở Cao Bằng, dân gian gọi là thành Bản Phủ. Tương truyền, đây là thành của Tục Pan (Thục Phán), người đã giành chiến thắng, được tôn làm vua nước Nam Cương sau cuộc đua tài “Cẩu chùa cheng vùa”. Thành này có hai lớp tường thành đất bao bọc gợi ra truyền thống đắp thành Cổ Loa sau khi An Dương Vương rời Cao Bằng xuống đóng đô ở đồng bằng. Vị trí của thành Bản Phủ, Cao Bằng khá phù hợp với vị trí của Tây Âu ở thế kỷ III trước công nguyên, hoặc vị trí của huyện Tây Vu sau khi bị nhập vào Nam Việt rồi Tây Hán”.
Dần dần, trải qua một quá trình xây dựng, phát triển, nước Nam Cương trở nên cường thịnh và tiến hành cuộc thu phục nước Văn Lang của Hùng Vương. Sau khi giành được thắng lợi, Thục Phán lập ra nước Âu Lạc.
Các nhà khoa học Đặng Nghiêm Vạn và Trần Quốc Vượng căn cứ vào truyền thuyết trên đã đưa ra một nhận định mới: Thục Phán là Tù trưởng một liên minh bộ lạc người Tây Âu hay người Tày cổ ở vùng rừng núi Nam Quảng Tây và Bắc Bắc Bộ mà trung tâm hoạt động ở vùng Cao Bằng. Cũng chính nhờ việc phát hiện truyền thuyết “Cẩu chùa cheng vùa” mà Đào Duy Anh cũng thay đổi quan điểm trước đây của mình, cho rằng: "Con cháu vua nước Thục mà Thục Phán là đại biểu cuối cùng đã từ miền Tứ Xuyên và Vân Nam vào nước Nam Cương của truyền thuyết theo đường sông Lô, sông Gâm, rồi tràn sang miền thượng lưu sông Cầu và sông Hữu Giang”,... “Cái tên Âu Lạc là phản ánh sự hợp nhất của hai thành phần Tây Âu và Lạc Việt”,... “Người Tày ở Tây Bắc nước ta ngày nay cũng cùng một tổ tiên với người Choang. Như vậy, người Tày chính là hậu duệ của người Tây Âu xưa”. Đồng thời “suy đoán rằng tộc đảng Thục Vương đó đã định cư ở miền gần phía Nam Tả Giang, lưu vực Hữu Giang cùng miền thượng lưu các sông Lô, sông Gâm, sông Cầu, mà thành nước Nam Cương, là một bộ lạc liên hiệp thuộc giống Tây Âu”. Và “sự hợp nhất giữa nước Nam Cương và nước Văn Lang, cái tên Âu Lạc lại càng nêu rõ sự hợp nhất bình đẳng giữa hai thành phần Tây Âu (Nam Cương) và Lạc Việt (Văn Lang)”.
Năm 1969, Nguyễn Duy Hinh viết bài Bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương cũng dựa trên những ghi chép trong các bộ sách cổ Trung Quốc, đã đưa ra một nhận định cho rằng: Người Lạc Việt cư trú trên một địa bàn rộng lớn từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Tây Giang. Thục Phán đứng đầu một nhóm Lạc Việt, Âu Lạc, Tây Âu hay Tây Âu Lạc cũng là một nước của người Lạc Việt do Thục Phán thành lập. Đồng thời cho là các Thần tích đã giải thích Thục Vương Tử là một chi của Hùng Vương họ Thục, chứ không phải nước Thục xa xôi”.
Trong giới sử học nước ta hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng: “Thục Phán là một lãnh tụ của nước Nam Cương của người Âu Việt, địa bàn chủ yếu của nước Nam Cương là tỉnh Cao Bằng ngày nay và miền đất nằm ở phía đông sông Tả Giang của Quảng Tây... Thục Phán là một nhân vật nằm trong khối cộng đồng người Việt, hoạt động ở miền Bắc nước Văn Lang, trong đó có tỉnh Cao Bằng ngày nay... Ông đã thành lập nước Âu Lạc bằng uy tín của ông. Uy tín của Thục Phán cho phép ông đoàn kết được người Tây Âu và Lạc Việt. Khối đoàn kết này là cơ sở chính trị, là nguồn gốc mọi lực lượng để người Việt đánh bại quân Tần”.
Các tác giả sách Địa chí Cổ Loa cho rằng: “Thục Phán là một thủ lĩnh của một liên minh bộ lạc người Tây Âu ở phía Bắc nước Văn Lang, theo truyền thuyết của đồng bào Tày thì liên minh bộ lạc đó là nước Nam Cương gồm 10 xứ Mường (9 mường của 9 chúa và 1 mường trung tâm của Thục Phán) tức 10 bộ lạc hình thành, với địa bàn cư trú gồm vùng Nam Quảng Tây, Cao Bằng và có thể rộng hơn, cả vùng núi phía Bắc Bắc Bộ, mà trung tâm là Cao Bằng. Nhân dân Cổ Loa (Hà Nội) cũng tương truyền rằng, An Dương Vương Thục Phán vốn là “một tù trưởng miền núi”, là người quê quán gốc tích ở miền rừng núi phía Bắc”.
Như vậy, cả thư tịch Việt Nam và thư tịch nước ngoài, cùng các truyền thuyết dân gian ghi chép thành văn hay truyền khẩu, nhất là việc phát hiện khảo cổ học ngày càng dày đặc tại khu di tích Cổ Loa - Đông Anh (Hà Nội) đều khẳng định: có một nhân vật lịch sử thực sự hiện hữu là Thục Phán - An Dương Vương, từng giữ cương vị đứng đầu Nhà nước Âu Lạc.
Cho đến nay, xu hướng phủ nhận, bác bỏ những ghi chép không phù hợp với thực tế không gian, thời gian và sự thực lịch sử của một số thư tịch cổ Trung Quốc viết về Thục Phán là người Ba Thục ngày càng được sự đồng thuận cao của giới nghiên cứu cả trong và ngoài nước.
Đồng thời, việc đi tìm những dấu vết, truyền thuyết ghi chép và chứng cứ lịch sử ở vùng phía Bắc Việt Nam càng có nhiều triển vọng và kết quả minh chứng cho nguồn gốc của Thục Phán - An Dương Vương tại vùng phía Bắc Việt Nam, phù hợp với một số “giả thuyết gần đây là coi Thục Phán - An Dương Vương như người cầm đầu một bộ lạc, một liên minh bộ lạc, một “nước” gần nước Văn Lang và có quan hệ mật thiết với cư dân Văn Lang, mà theo một số nhà sử học là thủ lĩnh của người Âu Lạc ở miền núi phía Bắc”.