Những người góp phần làm nên chiến thắng

Trải qua 21 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống đế quốc mỹ và bè lũ tay sai, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã giành được chiến thắng lẫy lừng. Thời khắc 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi lá cờ giải phóng tung bay kiêu hãnh trên nóc dinh Độc Lập sẽ mãi là thời khắc đẹp nhất. Từ đây, đất nước trọn niềm vui, non sông liền một dải. Trong ký ức của lớp lớp người con đất Việt anh hùng, nhất là trong tâm trí những người lính Cụ Hồ trong đoàn quân giải phóng năm nào, mùa xuân năm 1975 luôn là mùa xuân đẹp nhất.

Niềm vui của các cựu chiến binh Đoàn tàu Không số trong ngày gặp mặt (tháng 10/2011). Ảnh tư liệu: Thế Minh

Những ngươìlính trên Đoàntàu “Không số”

Một ngàytrung tuần tháng 4, chúng tôi đã tìm gặp và trò chuyện cùng một số nhân chứngsống của Đoàn tàu “Không số” năm xưa- những người góp phần viết nên huyền thoạiđường Hồ Chí Minh trên biển, đóng góp to lớn vào thành công của cuộc khángchiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước vào mùa xuân năm 1975. Những câuchuyện của họ cắt nghĩa cho tôi về niềm vinh quang và những mất mát sau cuộckháng chiến trường kỳ của dân tộc.

Tiếp xúcvới cựu chiến binh (CCB) Hà Văn Bằng (xóm Thông 2, xã Khánh Cư, huyện YênKhánh), điều dễ nhận thấy được ở ông, đó là lối nói chuyện cởi mở, thân tình,tác phong giản dị. Ông là một trong số những người con ưu tú của quê hương NinhBình được tuyển chọn tham gia Đoàn tàu “không số”.

Pha trà mơìkhách, vợ ông Bằng nói: Chuyện về Đoàn tàu “không số” với ông nhà tôi thì nhiêùlắm, hết ngày cũng chưa hết chuyện. Nói xong, bà cười hóm hỉnh nhìn về phiaống.

Ông Bằngcười tươi, giãi bày: Cuộc đời tôi, được tham gia Đoàn tàu “không số” là quãngthời thanh xuân đẹp nhất, với nhiều kỷ niệm không bao giờ phai...

Và cứ nhưthế, hình ảnh về những chiếc tàu “không số” như hiện ra trước mắt chúng tôi quahồi ức của người lính già. Ông Bằng kể lại: Năm 1963, khi đang là học sinh lớp9, tôi xung phong nhập ngũ. Nhà chỉ có 2 anh em trai, trước đó, anh tôi cũng đãxung phong ra trận. Bố tôi mất khi tôi mới được 2 tuổi, nên nhiều người khuyêntôi cân nhắc giữa nhập ngũ và tiếp tục theo học. Nhưng “Tuổi 20 khi hướng đơìđã thấy”, tôi cũng như nhiều thanh niên ngày ấy chỉ mong góp sức nhỏ bé củamình ra chiến trường, đánh tan quân thù.

Tháng 4 năm1964, sau 2 tháng huấn luyện và qua một đợt sơ tuyển khắt khe, ông Bằng đượcnhận nhiệm vụ ở Tiểu đoàn 20 (K20) thuộc Lữ đoàn 125- Đoàn tàu “không số”. Tạiđây, ông được đơn vị phân công làm thủy thủ mặt boong, đảm nhận vị trí pháo thủsố 5. Đối với người lính Đoàn tàu “không số” thì mỗi một chuyến đi là một nhiệmvụ tối mật và những quy định mà cán bộ, chiến sỹ nào cũng phải chấp hành: Tuyệtđối không được làm lộ bí mật của con đường, không để người và vũ khí, tàu rơivào tay địch. Do tính chất thực thi nhiệm vụ đặc biệt, nên trước khi đi tất cảcác chiến sĩ trên tàu đều được “truy điệu sống”.

Ông Bằngchia sẻ: Trước mỗi chuyến đi, chỉ huy tàu tập trung các chiến sĩ lại, đồng chíchính trị viên nói: lần này chúng ta đi vào vùng rất nguy hiểm, địch sẽ phongtỏa, các đồng chí có sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc? Chúng tôi hô đồng thanh 3lần: “sẵn sàng”!

- Ấy vậy màtôi đã có 4 lần được “truy điệu sống” đấy nhé - ông Bằng cười vui.

- Hẳn ôngvẫn còn nhớ tâm trạng của mình trong những lần “truy điệu sống”? – tôi hỏi.

- Tôi vàcác thủy thủ trên tàu “không số” luôn mang trong mình niềm tự hào khi được thamgia làm nhiệm vụ đặc biệt, chúng tôi hiểu rằng mỗi khẩu súng, mỗi thùng đạn,viên thuốc... được vận chuyển vào chiến trường miền Nam là vô cùng quý giá. Vìthế ai cũng sẵn sàng nhận nhiệm vụ, không màng cái chết, tất cả vì miền Namruột thịt.

4 năm gắnbó với Đoàn tàu không số (1964-1968), ông Bằng và đồng đội đã có 4 chuyến đithành công, trong đó có 2 lần được tháp tùng cùng thuyền trưởng Phan Vinh-người anh hùng của biển cả. Những chuyến đi ấy đều gặp khó khăn, bất trắc bơỉthời tiết, bởi sự theo dõi, truy sát của kẻ địch. Song nhờ sự mưu trí, khônkhéo và tinh thần quả cảm, ông và các đồng đội đã vượt qua tất cả để hoàn thànhxuất sắc nhiệm vụ, lập nên nhiều chiến công.

Năm 1965, ông vinh dự được kết nạpĐảng trên tàu. Năm 1966, ông Hà Văn Bằng là người duy nhất của đơn vị tàu 41được cử về Hà Nội dự Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn quốc.

Cùng chiếnđấu trên Đoàn tàu “Không số” còn có CCB Nguyễn Xuân Hạnh, ở phố Trần Kiên,phường Thanh Bình (thành phố Ninh Bình). ở tuổi 77, đã nhiều lần đối mặt vơíhiểm nguy và cái chết cận kề, thế mà trông ông vẫn còn phong độ lắm.

Ông Hạnhchia sẻ: Gọi là tàu “không số”, không phải vì không có số mà thậm chí mỗi tàucó rất nhiều số. Để bảo đảm bí mật cho tuyến đường vận tải đặc biệt, nhữngchiếc tàu phải ngụy trang thành tàu đánh cá, không có số hiệu cố định, liên tụcthay biển số, thay mầu sơn, thậm chí thay đổi hình dạng. Và đương nhiên, nhữngthủy thủ trên tàu cũng phải cải trang thành ngư dân nên cũng không quân trang,quân hiệu, quân hàm.

Ngày ấy, tất cả các nhiệm vụ của lính tàu “không số” làtuyệt mật, đến cả vợ con, người thân cũng không được biết. Khi thành công cũngphải giấu kín, không tuyên truyền, khen thưởng, cho đến những mất mát hy sinhcũng chỉ có biển cả bao la ghi nhận...

Theo ôngHạnh, đã là lính Đoàn tàu “Không số” thì thủy thủ nào cũng trở thành những conngười “đa di năng”, nghĩa là vừa chiến đấu, vừa có thể lái được tàu, vừa sưảđược những hỏng hóc nhỏ, lại vừa làm anh nuôi, vừa làm những diễn viên khi hoáthân thành những ngư dân nhằm đánh lừa địch...

Vì vậy mà chỉ với những con tàuđơn sơ, nhỏ bé nhưng những người lính Đoàn tàu “Không số” bằng trí tuệ, tinhthần quả cảm của mình đã can trường vượt qua sự săn lùng của hạm đội Mỹ và tàutuần tra của Ngụy, hay những trận cuồng phong của biển cả để kịp thời chi việnsức người, sức của cho chiến trường miền Nam.

Đối với ôngHạnh, mỗi một chuyến đi trên tàu “không số” là những kỷ niệm đặc biệt, đó lànhững lần đấu trí khôn ngoan giữa ta và tàu truy quét của địch; là những lầntàu bị mắc cạn, đồng bào, cán bộ, chiến sĩ miền Nam phải huy động những chiếcxuồng ghe để đỡ vũ khí; đó là những lần mật xanh, mật vàng khi con tàu “khôngsố” như lá tre chao đảo trước bão biển; đó là niềm vui của những người lính vàđồng bào miền Nam khi tàu cập bến an toàn...

10 năm phụcvụ trong Đoàn tàu “Không số”, CCB Nguyễn Xuân Hạnh cùng đồng đội đã trải quabao gian khổ, hy sinh. Nhưng hôm nay, trong câu chuyện của người lính già vơíthế hệ trẻ chúng tôi, ông chỉ nhắc đến những chiến công của đồng đội và tự hàoxúc động về nghĩa tình đồng bào.

Ông Hạnh khoe: Tháng 10 năm 2016, tôi có maymắn được về Thủ đô, được gặp lại đồng đội trong buổi gặp mặt thân mật của cốChủ tịch nước Trần Đại Quang với Đoàn đại biểu Hội truyền thống đường Hồ ChíMinh trên biển toàn quốc.

Gặp lại, ai cũng rưng rưng xúc động, mừng mừng tủitủi nhớ về những ngày chia nhau bát nước, giúp nhau vượt qua cơn say sóng, haynhững lần giành giật cái chết về mình, nhường phần sống cho đồng đội... những chuyệntưởng không có thật nơi trần thế, vậy mà lại luôn đầy ắp trong đời sống nhữngngười lính Đoàn tàu “Không số”.

Có một mùaxuân đẹp nhất

Năm nay ôngNguyễn Giang Nam-Trưởng Ban liên lạc truyền thống CCB Sư đoàn 304 huyện NhoQuan đã sang tuổi 75. Trải qua những năm tháng cùng đồng đội chiến đấu ác liệtvới quân thù, sau đó là những thăng trầm của cuộc sống, sức khỏe đã giảm sútnhiều, nhưng nhắc nhớ về những ngày tháng 4 lịch sử của 45 năm về trước, ôngsôi nổi hẳn lên.

Những chiến dịch, những con đường hành quân, những trận đánh,những chiến công... từ ký ức của người lính năm nào theo lời kể của ông tuônchảy làm cho người đối diện cảm nhận rất rõ khí thế hào hùng, quyết tâm, anhdũng của đoàn quân giải phóng.

Ông NguyễnGiang Nam nhớ lại, vào mùa xuân năm 1975, khi đó ông thuộc biên chế Ban Chínhtrị, Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304, Quân đoàn 2), Sau hơn một tháng liên tục tiếncông và nổi dậy với đòn sấm sét ở Tây Nguyên và chiến trường Trị - Thiên - Huế,Đà Nẵng, quân, dân ta đã giành được thắng lợi to lớn. Một cục diện mới chưatừng có đã mở ra; thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến.

Đặc biệt, đêm7/4/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh cho các cánh quân đang tiến vềSài Gòn: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từnggiờ, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toànthắng...”. Bức điện truyền đi khắp các mặt trận trên toàn miền Nam truyền đạtquyết tâm cao nhất của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương.

Ai cũng phấn khởi,quyết tâm, vì chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được Bộ Chính trị quyếtđịnh mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh, điều đó càng tăng thêm sức mạnh cho bướcchân thần tốc của quân ta tiến nhanh vào giải phóng Sài Gòn - giải phóng miềnNam, thống nhất đất nước.

“Đúng 17giờ ngày 26/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn. Các đơn vị của Quân đoàn 2đồng loạt nổ súng tấn công tuyến phòng thủ Đông Nam Sài Gòn của địch, trong đóđơn vị chúng tôi tiến công vào cụm cứ điểm quân sự Long Thành - Nước Trong;Trường Thiết giáp, Ngã ba đường 15... Đến sáng ngày 30/4, chúng tôi đã tiến sâuvào nội đô, áp sát dinh lũy cuối cùng của quân địch”.- Giọng sôi nổi, bồi hồi,ông Nam kể về thời khắc quan trọng của chiến dịch.

“Xúc độngnhất là khi chứng kiến cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc lập lúc 11 giờ30 phút ngày 30/4; cùng với cả rừng cờ xuất hiện khắp các đường phố báo hiêụSài Gòn đã hoàn toàn được giải phóng, kết thúc Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử,giải phòng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện trọn vẹn Di chúcthiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyện vọng thiết tha của dân tộc là độclập, thống nhất Tổ quốc. Với chúng tôi, mùa xuân năm 1975 mãi mãi là mùa xuânđẹp nhất trong đời”.- Ông Nguyễn Giang Nam xúc động nói.

Đinh Ngọc - Xuân Trường

Nguồn Ninh Bình: http://baoninhbinh.org.vn/nhung-nguoi-gop-phan-lam-nen-chien-thang-20200429094228567p12c16.htm