Nợ xấu - Áp lực tăng dần và hệ lụy
Nợ xấu không chỉ khiến chi phí vốn tăng lên, mà còn làm suy giảm khả năng 'bơm' vốn của hệ thống cho nền kinh tế - từ đó tạo áp lực kép lên mặt bằng lãi suất. Đây đang là thách thức của hệ thống ngân hàng, cần được kiểm soát chặt chẽ.

Khách hàng giao dịch tại HDBank. Ảnh: Minh Khôi
Bức tranh sáng - tối
Báo cáo tài chính của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho thấy, tổng nợ xấu của các ngân hàng niêm yết đã tăng lên 274.050 tỷ đồng vào cuối quý III-2025, tương đương tăng 2,01% so với quý trước và 8,1% so với cùng kỳ năm 2024. Mặc dù tốc độ tăng chậm lại rõ rệt so với các năm 2022-2024, nhưng tỷ lệ nợ xấu ghi nhận đến cuối quý III-2025 vẫn cao hơn mức trung bình năm (khoảng 1,84%) và sự phân hóa giữa các nhóm ngân hàng vẫn rõ nét.
Ông Lê Hoài Ân, CFA, Founder IFSS, chuyên gia đào tạo và tư vấn hoạt động ngân hàng (Công ty cổ phần Giải pháp tài chính tích hợp) cho biết, nhóm ngân hàng quốc doanh tiếp tục duy trì tỷ lệ nợ xấu thấp nhất hệ thống, ở mức 1,37%, giảm so với 1,49% của cùng kỳ năm 2024 và 1,41% của quý III-2023.
Bên cạnh đó, nhóm ngân hàng bán lẻ cũng ghi nhận diễn biến tích cực về chất lượng tài sản. Quy mô nợ xấu của nhóm chỉ tăng 8,5% so với cùng kỳ, thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng nợ xấu trong ba năm gần đây. Nhờ tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ, với dư nợ lũy kế tại quý III tăng 19%, tỷ lệ nợ xấu của nhóm được cải thiện khi tốc độ tăng dư nợ vượt xa mức tăng nợ xấu.
Nhóm ngân hàng bán buôn ghi nhận tỷ lệ nợ xấu trên mức 2% kể từ giữa năm 2023. Đến quý III-2025, nhóm này ghi nhận tỷ lệ nợ xấu 2,22%, vẫn ở mức cao và chưa có dấu hiệu giảm rõ rệt như hai nhóm ngân hàng trên.
“Đặc biệt, các khoản vay lớn và phức tạp hơn của nhóm khách hàng doanh nghiệp khiến rủi ro tín dụng khó kiểm soát hoàn toàn”, ông Lê Hoài Ân nói.
Đáng chú ý, nhóm ngân hàng khác ghi nhận tỷ lệ nợ xấu tăng liên tục trong năm nay, đạt 2,52% (cao hơn mức 2,41% cuối năm 2024 và 2,26% năm 2023).
Các chuyên gia phân tích của Công ty cổ phần Chứng khoán VIX nhận định, áp lực nợ xấu tăng dần khi tỷ lệ nợ xấu nhóm 3-5 trong quý III-2025 tăng lên tại nhóm ngân hàng tư nhân. Đồng thời, nợ nhóm 2 cũng tăng, tạo tín hiệu rủi ro vì các khoản nợ này có khả năng chuyển lên nhóm cao hơn trong các quý tiếp theo.
Áp lực kép đến lãi suất
Tiến sĩ Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu chính sách (Trường Đại học VinUni) nhận định, nếu xét riêng yếu tố nợ xấu có thể thấy, đây cũng là một trong những nguyên nhân mang tính cấu trúc khiến mặt bằng lãi suất khó giảm và thậm chí có xu hướng nhích lên trong thời gian qua.
Đáng chú ý, ngày 25-11, lãi suất bình quân liên ngân hàng tiếp tục tăng mạnh từ 0,45-0,7% ở tất cả các kỳ hạn dưới 1 tháng so với phiên trước đó. Theo đó, kỳ hạn qua đêm giao dịch ở mức đỉnh 6,5%/năm (mức cao nhất trong nhiều tháng qua), kỳ hạn 1 tuần 6,5%/năm, 2 tuần 6,45%/năm và 1 tháng 6%/năm.
Cũng trong ngày 25-11, trên kênh cầm cố, Ngân hàng Nhà nước chào thầu 5.000 tỷ đồng ở kỳ hạn 7 ngày, 7.000 tỷ đồng ở kỳ hạn 14 ngày, 13.000 tỷ đồng ở kỳ hạn 28 ngày và 22.000 tỷ đồng ở kỳ hạn 91 ngày, lãi suất đều ở mức 4%/năm. Kết quả có 5.000 tỷ đồng trúng thầu ở kỳ hạn 7 ngày, 5.426,81 tỷ đồng trúng thầu ở kỳ hạn 14 ngày, hơn 10.617 tỷ đồng trúng thầu ở kỳ hạn 28 ngày và hơn 21.774 tỷ đồng trúng thầu ở kỳ hạn 91 ngày. Đồng thời, có hơn 8.745 tỷ đồng đáo hạn phiên 25-11 và Ngân hàng Nhà nước không chào thầu tín phiếu. Như vậy, có 34.072,97 tỷ đồng được "bơm ròng" vào thị trường trong phiên này.
Theo các chuyên gia, khi nợ xấu tăng, ngân hàng buộc phải trích lập dự phòng rủi ro ở mức cao hơn để bảo đảm an toàn hệ thống. Ngoài ra, ngân hàng buộc phải tái định giá rủi ro đối với mọi khoản tín dụng mới. Điều này thể hiện rõ ở việc họ nâng chi phí dự phòng rủi ro trong lãi suất cho vay. Khi chất lượng tài sản suy giảm, ngân hàng không thể cho vay ồ ạt như trước mà phải siết điều kiện tín dụng và chỉ ưu tiên khách hàng tốt. Hệ quả là lãi suất cho vay đối với các phân khúc còn được tiếp cận vốn sẽ cao hơn, nhằm bù đắp tỷ lệ tổn thất kỳ vọng trong bối cảnh nợ xấu vẫn ở mức cao.
Tiến sĩ Tú Anh nói: “Đây chính là nguyên nhân khiến chi phí vay vốn của nền kinh tế tăng lên, kể cả khi nhu cầu vốn không quá lớn”.
Ngoài ra, nợ xấu làm giảm đáng kể khả năng cung ứng tín dụng của hệ thống ngân hàng. Khi một khoản nợ trở thành nợ xấu, dòng vốn tương ứng bị “giam” lại, không thể quay vòng để bổ sung thanh khoản cho các nhu cầu tín dụng mới. Điều này tạo ra áp lực thiếu hụt vốn cục bộ trong hệ thống, đặc biệt tại các ngân hàng có mức độ tập trung tín dụng cao vào lĩnh vực bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp. Khi cung tín dụng bị thu hẹp, trong khi cầu tín dụng của doanh nghiệp vẫn duy trì, lãi suất tất yếu tăng theo cơ chế thị trường.
“Nói cách khác, nợ xấu không chỉ khiến chi phí vốn tăng lên, mà còn làm suy giảm khả năng bơm vốn của hệ thống - từ đó tạo áp lực kép lên mặt bằng lãi suất”, Tiến sĩ Tú Anh nhấn mạnh.
Mặc dù tốc độ tăng nợ xấu không còn quá mạnh như hai năm trước đó, song tỷ lệ nợ xấu vẫn cao so với mức trung bình dài hạn. Điều này cho thấy chất lượng tín dụng của nhóm này vẫn là thách thức cần kiểm soát chặt chẽ.
Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/no-xau-ap-luc-tang-dan-va-he-luy-725466.html












