Nông sản Việt gõ cửa thị trường Halal 2,2 tỷ dân

Xuất khẩu Halal mở ra thị trường 2,2 tỷ người, song đòi hỏi doanh nghiệp Việt cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng để chinh phục thị trường tiềm năng này.

Từ thị trường 2,2 tỷ người đến cơ hội xuất khẩu

Thị trường Halal đang mở ra một không gian thị trường khổng lồ. Với quy mô hơn 2.000 tỷ USD, phục vụ 2,2 tỷ người tiêu dùng, Halal đã vượt khỏi khuôn khổ một khái niệm tín ngưỡng để trở thành một ngành kinh tế toàn cầu.

Theo Tổng cục Hải quan, chỉ trong 7 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đã xuất khẩu 10,9 tỷ USD hàng hóa sang các thị trường Halal, một con số phản ánh sức hút bền bỉ của thị trường này.

Tại Đông Nam Á, Indonesia và Malaysia có duy trì mức tiêu thụ ổn định nhờ cộng đồng Hồi giáo chiếm đa số. Xa hơn, nhiều quốc gia không thuộc khối Hồi giáo nhưng có cộng đồng Hồi giáo lớn như Pháp, Đức, Anh và Hoa Kỳ cũng đang ghi nhận xu hướng gia tăng nhu cầu đối với sản phẩm Halal. Đây chính là cơ hội để sản phẩm nông sản, thực phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam tiến sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Nhưng điều quan trọng, Halal không chỉ dừng lại ở một con dấu chứng nhận. Nó bao gồm cả một hệ thống tiêu chuẩn chặt chẽ từ nguồn nguyên liệu, chế biến, đóng gói cho tới giao vận (logistics).

Và hơn hết, đó là một hệ thống niềm tin mà doanh nghiệp buộc phải chạm tới nếu muốn mở cửa thị trường.

Trong hành trình này, GC Food được xem là một điển hình. Xuất phát điểm với nha đam và thạch dừa, là sản phẩm tưởng chừng chỉ dành cho nội địa, nhưng doanh nghiệp này đã biết cách biến Halal thành một trong những thị trường chiến lược.

Ông Nguyễn Diệp Pháp, Phó tổng giám đốc Khối kinh doanh quốc tế GC Food cho biết rằng: “Ngay từ đầu, chúng tôi tiếp cận chứng nhận Halal tại Malaysia và Indonesia như một bước nền tảng. Sáu năm sau, Halal đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ ba, chiếm 25% doanh thu và tăng trưởng đều 10–15% mỗi năm”.

Không dừng lại ở chứng nhận, GC Food còn tạo lợi thế riêng từ nguyên liệu 100% thực vật, nhà máy tại Ninh Thuận với lực lượng lao động Hồi giáo chiếm tỷ lệ lớn đển đảm bảo sự giám sát chuẩn mực Halal một cách thường xuyên.

Trong ba năm tới, doanh nghiệp đặt mục tiêu tiếp tục chinh phục thị trường Halal tại Trung Quốc, Ấn Độ, Trung Đông và Bắc Phi, nơi đồ uống nha đam và thạch dừa cũng đang trở thành xu hướng.

Một nhà máy chế biến sản phẩm xuất khẩu sang thị trường Halal của GC Food. Ảnh: DN

Một nhà máy chế biến sản phẩm xuất khẩu sang thị trường Halal của GC Food. Ảnh: DN

Nếu GC Food là câu chuyện chuẩn bị bài bản, thì Ban Me Gold lại đại diện cho tinh thần dấn thân. Từ hạt cà phê Buôn Ma Thuột, Ban Me Gold đã bước vào thị trường Halal với những lô hàng đã được xuất sang Thái Lan, trước khi mở rộng sang Hàn Quốc và Malaysia.

Ông Võ Tuấn Anh, Phó giám đốc Xúc tiến thương mại Ban Me Gold, khẳng định: “Cà phê của chúng tôi không chỉ là nông sản, mà còn mang tinh thần dân tộc. Halal là cách để hạt cà phê Việt đến gần hơn với hàng tỷ người tiêu dùng toàn cầu”.

Tương tự GC Food, Ban Me Gold cũng không dừng ở xuất khẩu thô mà theo đuổi chiến lược nâng giá trị nông sản Việt Nam tại thị trường Halal thông qua xuất khẩu sản phẩm chế biến.

Những rào cản chưa dễ vượt

Cơ hội rộng mở, nhưng con đường vào thị trường này vẫn còn nhiều thách thức. Theo bà Hồ Thị Quyên, Phó giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư TP.HCM (ITPC), rào cản lớn nhất lại nằm ở chính nội lực của doanh nghiệp Việt.

Hơn 90% doanh nghiệp hiện nay là nhỏ và vừa, quy mô hạn chế, vốn mỏng, công nghệ chưa hiện đại, nhân sự lại thiếu hiểu biết chuyên sâu về tiêu chuẩn Halal. Những yếu tố này khiến họ khó đủ sức đầu tư để cạnh tranh.

Bà Hồ Thị Quyên, Phó giám đốc IPTC chia sẻ tại hội thảo về xuất khẩu vào thị trường Halal. Ảnh: Quỳnh Anh

Bà Hồ Thị Quyên, Phó giám đốc IPTC chia sẻ tại hội thảo về xuất khẩu vào thị trường Halal. Ảnh: Quỳnh Anh

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Pháp cho biết hiện nay không ít doanh nghiệp còn “vấp” ngay từ khâu chứng nhận. Bởi mỗi quốc gia lại có tiêu chuẩn và cơ quan cấp phép Halal riêng. Sự khác biệt này khiến chi phí và thời gian của doanh nghiệp cũng tăng lên.

Ngay tại Việt Nam, hoạt động chứng nhận Halal cũng còn rời rạc, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan và đơn vị liên quan. “Điều này gây trở ngại không nhỏ cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận thị trường, đặc biệt ở các khâu xác minh chứng nhận, kiểm định chất lượng và vận hành logistics theo yêu cầu nghiêm ngặt của từng quốc gia Hồi giáo”, bà Quyên bổ sung thêm.

Tuy vậy, bà Quyên cũng khẳng định rằng: “Nếu có chiến lược đồng bộ, Việt Nam hoàn toàn có thể phát triển công nghiệp Halal thành một trụ cột mới trong cơ cấu xuất khẩu."

Quỳnh Anh

Nguồn Nhà Quản Trị: https://theleader.vn/nong-san-viet-go-cua-thi-truong-halal-22-ty-dan-d42031.html