Nông sản Việt vào top 10 xuất khẩu

Trong vòng một thập kỷ, nông nghiệp Việt Nam đã vươn lên thành trụ cột kinh tế, với tốc độ tăng trưởng ổn định 2,5-3,5%/năm và kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt kỷ lục 62,5 tỷ USD trong năm 2024, đưa nước ta vào top 10 quốc gia xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới.

Thành quả này cho thấy nông nghiệp Việt Nam không chỉ đóng góp quan trọng cho an ninh lương thực toàn cầu, mà còn khẳng định thương hiệu quốc gia trên bản đồ nông nghiệp quốc tế. Song, để duy trì vị thế và tiến tới nấc thang cao hơn, Việt Nam cần tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng tầm chuỗi giá trị và thích ứng nhanh với yêu cầu khắt khe của thị trường thế giới.

Cà phê Việt Nam chiếm thị phần lớn trong phân khúc cà phê thế giới. Ảnh: Đỗ Phong

Cà phê Việt Nam chiếm thị phần lớn trong phân khúc cà phê thế giới. Ảnh: Đỗ Phong

Thế và lực mới từ khoa học - công nghệ

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, thập kỷ qua, nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng 2,5-3,5%/năm; riêng năm 2024, kim ngạch nông, lâm, thủy sản đạt 62,5 tỷ USD, tăng gần 19% so 2023, đưa Việt Nam vào nhóm 10 nước xuất khẩu nông sản hàng đầu.

Đặc biệt, trong 8 tháng năm 2025, mặc dù liên tiếp bị ảnh hưởng bởi các hàng rào thuế quan và hàng rào kỹ thuật từ các thị trường nhập khẩu chính, song kim ngạch xuất khẩu ngành nông nghiệp 8 tháng đầu năm 2025 vẫn đạt 45,37 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, khoa học, công nghệ không chỉ là động lực, mà còn là then chốt để nông nghiệp phát triển bền vững trong thời gian qua.

Cùng với chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng chế biến, nhiều tiến bộ kỹ thuật đã trực tiếp giảm thất thoát sau thu hoạch 5-10%, bảo đảm đồng đều chất lượng theo chuẩn quốc tế. Tỷ lệ cơ giới hóa khâu làm đất đã vượt 95%; ứng dụng drone, IoT, trí tuệ nhân tạo, robot bước đầu đi vào sản xuất, góp phần tăng năng suất, hạ chi phí.

Xuất khẩu gạo Việt Nam tập trung vào chất lượng. Ảnh: Đỗ Phong

Xuất khẩu gạo Việt Nam tập trung vào chất lượng. Ảnh: Đỗ Phong

Tuy nhiên, “điểm nghẽn” vẫn hiện hữu trong sản xuất cũng như xuất khẩu nông sản Việt Nam, đó là ứng dụng công nghệ cao chưa đồng đều, thất thoát rau quả, thủy sản còn cao; cơ giới hóa thiếu liên thông giữa các khâu; nhiều doanh nghiệp chế biến quy mô nhỏ, liên kết chuỗi còn lỏng.

Từ thực tế đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường định hướng 5 nhóm giải pháp. Đó là, hoàn thiện thể chế khuyến khích nghiên cứu, phát triển và chuyển giao; phát triển trung tâm đổi mới sáng tạo vùng gắn viện - trường - doanh nghiệp; mở rộng hợp tác quốc tế trong chế biến sâu, logistics và cơ giới hóa thông minh; xã hội hóa nghiên cứu; xây dựng mô hình chuỗi giá trị công nghệ cao, truy xuất minh bạch.

Một điểm đáng lưu ý, thị trường nhập khẩu nông sản Việt Nam ngày một rộng lớn, song “cánh cửa” đó không hề dễ bước, nếu không có một lộ trình, quy trình đủ các yêu cầu. Ở góc độ chính sách và thị trường, các chuyên gia lưu ý làn sóng “chuẩn xanh” từ EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ… đang đi rất nhanh, tạo áp lực nhưng cũng mở cơ hội nâng hạng sản phẩm nếu doanh nghiệp chủ động chuyển đổi.

Tiến sĩ Nguyễn Anh Phong, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách nông nghiệp và môi trường nêu rõ, lợi ích đa chiều của kinh tế tuần hoàn; đồng thời kiến nghị hoàn thiện bộ tiêu chí sản xuất tuần hoàn, cơ chế EPR, tín dụng xanh và ưu tiên doanh nghiệp đạt chuẩn xanh khi tiếp cận vốn, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu.

Sầu riêng - mặt hàng tỷ đô của nông sản Việt Nam. Ảnh: Đỗ Phong

Sầu riêng - mặt hàng tỷ đô của nông sản Việt Nam. Ảnh: Đỗ Phong

Từ phía giới nghiên cứu, GS.TS Lê Văn Tán, Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh đặt câu hỏi: “Nếu Việt Nam không kịp thời tiếp cận và ứng dụng công nghệ xanh, thì trong 10 năm tới chúng ta sẽ ở đâu trên bản đồ sản xuất và xuất khẩu nông sản toàn cầu?”. Ông đề xuất 3 nguyên tắc khi đầu tư công nghệ: Ứng dụng rộng và thực tiễn; bảo đảm chất lượng, an toàn cho người tiêu dùng; và giảm phát thải, cân bằng hợp lý giữa “xanh” và hiệu quả kinh tế.

Các công nghệ tiên tiến như siêu âm cường độ cao, plasma lạnh, xử lý áp suất cao, điện trường xung… đang được thử nghiệm nhằm kéo dài bảo quản, giữ hàm lượng dinh dưỡng và ổn định cảm quan; thách thức là chi phí thiết bị và năng lực triển khai ở quy mô công nghiệp, đòi hỏi cơ chế đồng tài trợ R&D - thương mại hóa và “đặt hàng” theo bài toán từng ngành hàng.

Từ dây chuyền đến thị trường

Để xuất khẩu bền vững, các doanh nghiệp kinh doanh, xuất khẩu nông sản Việt Nam đã chủ động ứng dụng công nghệ, tiến sâu vào các thị trường lớn với yêu cầu kỹ thuật, chất lượng cao, song đổi lại là thương hiệu và giá trị kinh tế lớn.

Tại Sơn La, Công ty Cổ phần Tập đoàn DOVECO vừa đưa vào vận hành dây chuyền đồ hộp giấy công nghệ Thụy Điển (Tetra Recart). Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Tập đoàn DOVECO Đinh Cao Khuê cho biết, công nghệ mới giúp sản phẩm trái cây chế biến được đóng gói trong bao bì đạt chuẩn quốc tế, tiện lợi, thân thiện môi trường, bảo toàn hương vị và dinh dưỡng, đồng thời bảo đảm đầu ra ổn định cho vùng nguyên liệu, góp phần phát triển bền vững cho nông dân Tây Bắc. Đây là hình mẫu cho hướng đi chế biến sâu gắn “chuẩn xanh” để nâng hạng thương hiệu và giá trị gia tăng.

Các doanh nghiệp hướng tới sản xuất theo chuỗi, xanh, bền vững. Ảnh: Đỗ Phong

Các doanh nghiệp hướng tới sản xuất theo chuỗi, xanh, bền vững. Ảnh: Đỗ Phong

Ở bình diện chuỗi giá trị, nhiều doanh nghiệp đẩy mạnh tái cấu trúc theo hướng khép kín - xanh: Chiến lược chuỗi giá trị nông nghiệp xanh, chuyên môn hóa từng mắt xích (giống - vùng nguyên liệu - chế biến - thương mại), qua đó chủ động chất lượng và truy xuất nguồn gốc theo yêu cầu các thị trường cao cấp.

Tuy nhiên, để ứng dụng công nghệ là điều không phải dễ đối với nhiều doanh nghiệp, còn các “điểm nghẽn” cần Chính phủ, bộ, ngành tháo gỡ. Theo ông Nguyễn Mạnh Hùng (CEO Nafoods Group) cho biết, chi phí logistics đang chiếm tới khoảng 20% giá thành; năng lực kho lạnh và kết nối cảng cạn còn hạn chế. Doanh nghiệp kiến nghị Nhà nước đầu tư hạ tầng “cứng” (cảng cạn, kho lạnh thông minh), còn doanh nghiệp tập trung vào công nghệ và quản trị đi kèm xúc tiến thương mại và xây dựng thương hiệu quốc gia cho nhóm nông sản chủ lực.

Các chuyên gia cho rằng, thể chế hóa “chuẩn xanh” và “chuẩn quy trình” cần cập nhật đồng bộ tiêu chuẩn - quy chuẩn kỹ thuật sau thu hoạch, truy xuất, an toàn thực phẩm; ưu đãi tín dụng xanh cho kho lạnh, logistics thông minh, trung tâm sơ chế - đóng gói - phân loại; khuyến khích PPP cho hạ tầng chuỗi lạnh.

Đặc biệt, phải thực hiện chuyển đổi xanh, tuần hoàn có mục tiêu, trong đó hoàn thiện bộ tiêu chí sản xuất tuần hoàn; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về kinh tế tuần hoàn; ưu tiên doanh nghiệp đạt chuẩn xanh khi tiếp cận vốn, xúc tiến thương mại, thương hiệu.

Nông nghiệp xanh, hướng đi bền vững của nông sản Việt Nam. Ảnh: Kim Thoa

Nông nghiệp xanh, hướng đi bền vững của nông sản Việt Nam. Ảnh: Kim Thoa

Cửa vào top 10 đã mở, nhưng để ở lại bền vững, nông sản Việt phải đi bằng “kỷ luật quy trình” và “văn hóa chất lượng” trên mọi mắt xích, từ giống, canh tác, thu hoạch, làm mát, sơ chế - đóng gói, logistics chuỗi lạnh đến phân phối dữ liệu hóa. Khi chính sách khuyến khích đúng, hạ tầng “cứng - mềm” được nâng cấp và cộng đồng doanh nghiệp đầu tư thực chất vào công nghệ - chuẩn xanh, nông sản Việt sẽ tạo dựng vị thế bền vững trên bản đồ nông nghiệp toàn cầu.

Đỗ Minh

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/nong-san-viet-vao-top-10-xuat-khau-716239.html