Nông thôn mới vùng dân tộc: Giữ bản sắc trong hiện đại hóa
Xây dựng nông thôn mới vùng dân tộc thiểu số đang tạo chuyển biến rõ nét khi kết hợp giữa phát triển hạ tầng hiện đại với gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống.
Hiện đại hóa nông thôn gắn với phát triển bền vững bản địa
Trong những năm gần đây, chương trình xây dựng nông thôn mới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc (tháng 3/2025), đến hết năm 2024 đã có hơn 1.500 xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm hơn 40% tổng số xã toàn vùng. Đây là con số ấn tượng, đặc biệt trong bối cảnh các địa phương còn nhiều khó khăn về hạ tầng, kinh tế, văn hóa.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý hơn là nhiều địa phương không chỉ chú trọng đến yếu tố “hiện đại hóa”, mà còn xác định rõ định hướng “hiện đại nhưng không mất gốc”. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc được lồng ghép vào từng tiêu chí nông thôn mới như môi trường, văn hóa, thu nhập, tổ chức sản xuất…

Bản Cát Cát là một trong những địa điểm du lịch không thể bỏ quên khi đến SaPa. Ảnh: Hải Miên
Tại xã Pả Vi (huyện Mèo Vạc, Hà Giang), bà Sùng Thị Mỷ, một người dân tộc Mông chia sẻ: “Bản làng giờ có đường bê tông, trường học khang trang, nhà ai cũng có nước sạch. Nhưng điều tôi quý nhất là người dân vẫn giữ trang phục truyền thống, vẫn tổ chức lễ hội Gầu Tào như xưa. Làm nông thôn mới nhưng vẫn là người Mông mình”.
Bên cạnh đó, chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 cũng xác định rõ: Việc xây dựng nông thôn mới không chỉ đơn thuần là đầu tư hạ tầng mà phải đi đôi với bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống. Bộ tiêu chí nông thôn mới phù hợp vùng dân tộc thiểu số (ban hành theo Quyết định 318/QĐ-TTg ngày 8/3/2022) có bổ sung nội dung “phát huy giá trị văn hóa dân tộc” một điểm mới mang tính bản sắc.
Một xu hướng nổi bật trong xây dựng nông thôn mới vùng dân tộc thiểu số hiện nay là gắn kết phát triển kinh tế với du lịch sinh thái và du lịch văn hóa cộng đồng. Các mô hình này vừa tạo thu nhập, vừa giữ gìn phong tục, tập quán và môi trường sống bản địa.
Tại Sa Pa (Lào Cai), mô hình du lịch cộng đồng ở bản Cát Cát của đồng bào người Mông là một điển hình. Những ngôi nhà gỗ truyền thống được cải tạo thành homestay nhưng vẫn giữ kiến trúc nguyên bản. Du khách được trải nghiệm dệt lanh, giã bánh dày, nghe khèn Mông. Chị Giàng Thị Dua, một chủ homestay ở đây chia sẻ: “Làm du lịch phải gìn giữ cái hồn bản sắc, du khách mới quay lại”.
“Chúng tôi khuyến khích người dân giữ gìn nếp nhà, lễ hội truyền thống và sử dụng tiếng dân tộc. Trong các bản nông thôn mới, nhà văn hóa không chỉ là nơi sinh hoạt cộng đồng mà còn là không gian lưu giữ, trưng bày nghề thủ công, trang phục, nhạc cụ dân tộc. Đó là cách phát triển hài hòa giữa truyền thống và hiện đại”, chị Dua cho biết thêm.
Gìn giữ văn hóa bản địa gắn với du lịch, sinh kế bền vững
Không chỉ là nơi lưu giữ bản sắc, nhiều địa phương vùng cao còn biết cách “biến văn hóa thành tài sản” thông qua phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái. Đây được coi là bước đi khôn ngoan để vừa tạo sinh kế cho người dân, vừa phát huy bản sắc trong tiến trình hội nhập.
Tại xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình), người Dao Tiền đã gìn giữ nghề dệt thổ cẩm, nhuộm chàm để giới thiệu với du khách. Từ năm 2023, xã được chọn làm điểm du lịch cộng đồng của tỉnh Hòa Bình. Chị Triệu Thị Nguyệt cho biết: “Ngày trước, thổ cẩm chỉ dệt để mặc. Nay có khách du lịch tới, mình làm thêm túi xách, khăn, bán mỗi tháng cũng được vài triệu đồng. Trẻ con thấy bà, mẹ dệt vải cũng ham học nghề. Như vậy là văn hóa được truyền lại”.

Công đoạn nhuộm chàm cho vải thổ cẩm. Ảnh: Trọng Đạt
Theo Báo cáo của Tổng cục Du lịch Việt Nam (tháng 2/2025), hơn 70% điểm du lịch cộng đồng tại các tỉnh miền núi phía Bắc nằm ở địa bàn nông thôn mới, nơi có kết cấu hạ tầng được nâng cấp và môi trường cảnh quan được cải thiện. Nhờ đó, lượng khách tăng đều đặn từ 10-15% mỗi năm, giúp người dân tăng thu nhập bền vững.
Ngoài ra, một số mô hình kết hợp giữa nông nghiệp sạch và văn hóa bản địa cũng đang được nhân rộng. Tại xã Quang Huy (huyện Phù Yên, Sơn La), bà con dân tộc Thái trồng lúa nếp theo hướng hữu cơ và xây dựng sản phẩm OCOP gạo nếp Quang Huy. Đặc biệt, bao bì sản phẩm có in họa tiết thổ cẩm truyền thống, kèm giới thiệu về phong tục lễ hội của người Thái. Sản phẩm này không chỉ tạo việc làm tại chỗ mà còn quảng bá văn hóa vùng cao ra thị trường rộng lớn hơn.
Chia sẻ về định hướng trong thời gian tới, chuyên gia chương trình nông thôn mới của UNDP Việt Nam, nhấn mạnh: “Muốn nông thôn mới ở vùng dân tộc thiểu số thực sự bền vững thì phải gắn văn hóa với kinh tế. Khi người dân tự hào về bản sắc, họ sẽ có động lực gìn giữ và phát huy. Việc kết hợp với du lịch, thương mại hóa sản phẩm truyền thống là hướng đi đầy triển vọng”.
Chương trình xây dựng nông thôn mới vùng dân tộc thiểu số không chỉ là cuộc cách mạng về hạ tầng và đời sống vật chất, mà còn là hành trình gìn giữ và phát huy văn hóa dân tộc giữa dòng chảy hiện đại. Những ngôi nhà xây mới, con đường bê tông thẳng tắp, trường lớp khang trang… chỉ thực sự có ý nghĩa khi bên trong đó vẫn vang lên tiếng khèn, tiếng hát ru, vẫn thấp thoáng bóng áo chàm, váy xòe thổ cẩm của người dân bản địa.
Giữ bản sắc trong hiện đại, đó chính là “căn cước” để vùng cao không hòa tan giữa làn sóng phát triển, mà vững vàng tiến về phía trước, theo cách của riêng mình.