Nữ luật sư nhảy lầu tử vong: Báo động bệnh trầm cảm ngày càng tăng
Công quan Công an tìm thấy trong căn hộ của nữ luật sư rơi lầu có sổ khám bệnh tại bệnh viện tâm thần với chứng trầm cảm. Số liệu thống kê cho thấy có khoảng 30% dân số Việt Nam mắc các bệnh rối loạn tâm thần.
Tối 16/11, Công an quận Thủ Đức, TP HCM cho biết bước đầu xác định nguyên nhân nữ luật sư N.T.M.T (SN 1970, ngụ chung cư Sunview Town, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức) tử vong. Nguyên nhân ban đầu được xác định là do nữ luật sư bị bệnh trầm cảm, có dấu hiệu tự tử.
Thời điểm phát hiện thi thể nữ luật sư dưới sảnh chung cư Sunview Town, tổ công tác đã kiểm tra căn hộ của luật sư T trên tầng 18, phát hiện trên bàn làm việc nhiều giấy tờ, sổ khám bệnh ở bệnh viện Tâm Thần, trong đó bác sĩ thăm khám và xác định luật sư T đang điều trị rối loạn giấc ngủ, trầm cảm. Khu vực luật sư T rơi xuống là căn phòng ngủ có cửa sổ, không ban công, không khung sắt che chắn. Cạnh cửa sổ là một chiếc ghế sắt.
Theo người nhà của luật sư T, sau khi biết tin nữ luật sư mắc bệnh trầm cảm, người nhà đã thuê người đến chăm sóc. Trưa 15/11, người đến chăm sóc luật sư T được luật sư T yêu cầu ở ngoài phòng khách còn mình vào phòng ngủ thay đồ. Được một lúc thì người chăm sóc này nghe hô hoán có người nhảy lầu, vào phòng kiểm tra thì không thấy luật sư T đâu. Xuống sảnh chung cư kiểm tra phát hiện luật sư T tử vong nên báo với gia đình nạn nhân. Khám nghiệm tử thi luật sư T tử vong do đa chấn thương, không có tác động từ người khác.
Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), đến năm 2020, trầm cảm là căn bệnh thứ hai gây hại đến sức khỏe của con người chỉ sau tim mạch. Trong đó trầm cảm ở Việt Nam hiện nay đang có chiều hướng gia tăng đặc biệt là trong giới trẻ.
Thống kê bệnh trầm cảm ở Việt Nam
Theo Viện Sức khỏe Tâm thần, có khoảng 30% dân số Việt Nam mắc các bệnh rối loạn tâm thần, trong đó tỉ lệ trầm cảm chiếm 25%. Điều đáng nói là nhiều người vẫn còn mơ hồ về căn bệnh này, khiến việc chẩn đoán sớm và điều trị bệnh gặp rất nhiều khó khăn.
PGS.TS. Trần Văn Cường, Chủ tịch Hội Tâm thần học Việt Nam, cho hay, trầm cảm là một rối loạn phổ biến, xảy ra ở nhiều lứa tuổi nhưng phổ biến nhất là 18-45 tuổi, phụ nữ nhiều hơn nam giới. Hội chứng này gặp tỷ lệ cao ở những người ly thân, ly dị, thất nghiệp.
Nguy cơ mắc trầm cảm cũng tăng với các bệnh lý thần kinh, tim mạch kèm theo như đột quỵ, Parkinson. Đáng lưu ý khi có tới hơn 2/3 người bị trầm cảm không nhận ra mình có bệnh và không được điều trị. Chỉ có khoảng 20% những bệnh nhân này được điều trị đúng chuyên khoa và đúng phác đồ.
Điều đáng báo động là có tới 48% những người trầm cảm có ý tưởng tự sát và 24% những người có toan tự sát được báo cáo là không nhận được sự hỗ trợ điều trị trước đó.
Theo TS. Nguyễn Doãn Phương, Viện trưởng Viện Sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai, trong năm 2016, Viện Sức khỏe tâm thần đã khám và điều trị ngoại trú 18.402 lượt bệnh nhân trầm cảm, điều trị nội trú 446 lượt bệnh nhân. Trung bình mỗi ngày có 50 bệnh nhân đến khám và điều trị về trầm cảm. Mỗi năm, số người tự sát do trầm cảm ở nước ta từ 36.000 - 40.000 người.
Nghiên cứu mới nhất tại Viện Sức khỏe tâm thần năm 2016 ở những bệnh nhân từ 45 tuổi bị trầm cảm có tỉ lệ 36,5% bệnh nhân có ý tưởng hoặc hành vi tự sát. Đa số tự sát do bệnh nhân cảm thấy mình vô dụng, tội lỗi, không xứng đáng sống. Phần lớn các trường hợp trầm cảm có khuynh hướng trở thành mãn tính và tái diễn cũng như phục hồi không hoàn toàn giữa các giai đoạn.
Theo TS. Nguyễn Doãn Phương, có thể nhận biết bệnh trầm cảm qua một số dấu hiệu: cảm giác buồn chán, trống rỗng; khó tập trung suy nghĩ, hay quên; luôn cảm giác mệt mỏi, không muốn làm việc gì; cảm giác mình có tội lỗi, vô dụng, không xứng đáng; mất ngủ, hoặc ngủ quá nhiều; hay cáu gắt, giận dữ; giảm thích thú trong các hoạt động hoặc sở thích hàng ngày; giảm cảm giác ngon miệng, sụt cân hoặc ăn quá nhiều; nghĩ về cái chết, có ý tưởng hoặc hành vi tự sát.
Ngoài ra, nhiều bệnh nhân trầm cảm còn được biểu hiện bằng các triệu chứng như đau đầu, đau tức ngực, các rối loạn tiêu hóa…
Nguyên nhân khiến tự tự do trầm cảm gia tăng
Theo Tổ chức Y tế Thế giới WHO, hiện nay có khoảng 350 triệu người bị trầm cảm tức là cứ 20 người có một người đã từng trải qua một lần trầm cảm dù mức độ nặng hay nhẹ. Tình trạng rối loạn trầm cảm thường xảy ra ngay khi tuổi đời còn trẻ, làm giảm khả năng lao động và thường dễ tái phát ở những năm về sau. Trầm cảm ở mức độ nặng chính là nguyên nhân quan trọng dẫn đến gánh nặng ngân sách bệnh tật toàn cầu sau tự tử và bệnh tim mạch. Mỗi năm, có khoảng một triệu người tìm đến cái chết do ám ảnh về căn bệnh trầm cảm.
Các biểu hiện trầm cảm tái diễn nhiều lần và dần trở thành mãn tính, dẫn tới suy giảm khả năng tự chăm sóc, hay nghĩ đến việc tự tử. Lứa tuổi nào cũng thể mắc bệnh, thông thường nữ có nguy cơ mắc nhiều hơn nam khoảng 2 lần. Trầm cảm có thể gây nguy hiểm đối với người khác bởi từ chính những suy nghĩ về cái chết, ý tưởng tự tử của người bệnh. Ví dụ: trường hợp người mẹ giết con mới sinh (trầm cảm loạn thần sau sinh), thanh thiếu niên giết cha mẹ, giết người cao tuổi, giết người hàng loạt...
Một số hoàn cảnh dễ dẫn tới trầm cảm như những cú sốc tinh thần, sang chấn tâm lý, áp lực công việc học hành, sự nghiệp đổ vỡ, đối diện với những khó khăn quá lớn, bất hòa kéo dài, phụ nữ sau sinh... Người lớn tuổi thường có biểu hiện phiền muộn đau đớn, chậm chạp, ít nói, quên lẫn; dễ lầm tưởng với bệnh già. Người bệnh đôi khi còn không kiểm soát được hành vi của bản thân. Họ nghĩ rằng tự tử là điều duy nhất có thể giải thoát bản thân mình khỏi những nỗi ám ảnh, sự đau khổ dằn vặt. Thực tế thì, ý nghĩ tự tử hay hành vi tự tử, làm hại người khác chính là một triệu chứng của bệnh trầm cảm nặng.
Người bệnh không nên coi nhẹ triệu chứng trầm cảm, hãy tìm đến các chuyên gia, bác sĩ tâm lý để nói rõ vấn đề của mình. Bệnh nhân trầm cảm cần phải thăm khám nhiều lần để điều trị, theo dõi đề phòng triệu chứng nặng thêm. Bạn bè và người thân trong gia đình chính là đường dây nối kết, là yếu tố quan trọng trong chữa trị thành công bệnh trầm cảm. Cần hiểu biết về trầm cảm, hỗ trợ điều trị, giúp đỡ trong cuộc sống, duy trì thường xuyên các hoạt động trước kia của người bệnh. Nhận biết các dấu hiệu cảnh báo tự tử, đánh giá nghiêm chỉnh về tự tử, ngay từ khi phát hiện bệnh nhân có ý nghĩ muốn chết.