Nữ phi hành gia Claudie Haigneré: 'Vũ trụ đã xe duyên và khoa học dẫn lối tôi đi'

PV: Điều gì đã thúc đẩy bà trở thành phi hành gia?

Bà Claudie Haigneré: Ngày 20/7/1969, phi hành gia người Mỹ Neil Armstrong trong sứ mệnh Apollo 11 của Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA) đã đặt chân lên Mặt trăng. Sự kiện này là cột mốc lịch sử quan trọng, đánh dấu bước tiến vĩ đại trong ngành thám hiểm vũ trụ của nhân loại. Khi đó, tôi mới có 12 tuổi và chưa từng nghĩ mình sẽ trở thành nhà du hành vũ trụ. Nhưng, từ giây phút biết về thông tin này, niềm say mê vũ trụ đã nhen nhóm trong tôi, thôi thúc tôi đắm mình vào những trang sách khoa học viễn tưởng và miệt mài tìm hiểu về không gian.

Lớn lên, tôi theo học y khoa và trở thành bác sĩ chuyên ngành xương khớp. Năm 1985, khi đang làm việc tại Bệnh viện Cochin, tôi tình cờ thấy thông báo của Trung tâm Nghiên cứu không gian Quốc gia, Cơ quan Vũ trụ Pháp (CNES) tuyển chọn phi hành gia thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học trên các trạm vũ trụ. Tôi tự nghĩ, sao mình không thử để biến giấc mơ thời thơ ấu thành hiện thực? Cuối cùng, trong số hơn 1.000 hồ sơ dự tuyển gồm có 100 ứng viên nữ (chiếm 10%), tôi đã may mắn trở thành một trong 7 người được chọn lựa và là nữ giới duy nhất của nhóm.

PV: Quá trình tuyển chọn đã khá khắt khe. Khi được đào tạo, chắc hẳn bà cũng phải vượt qua rất nhiều thử thách?

Bà Claudie Haigneré: Đúng vậy. Khác với nhiều đồng nghiệp có xuất phát điểm là phi công, chẳng hạn như chồng tôi (cười...), tôi là một bác sĩ. Vì vậy, tôi đã phải học rất nhiều kỹ năng bổ sung để thích nghi với môi trường không gian không trọng lượng. Ví dụ như việc kiểm soát cơ thể. Rõ ràng là não nhận biết phải có sự kiểm soát và thay đổi mọi cử động nhưng để thực hiện nó lại không hề đơn giản. Tôi phải tập luyện rất nhiều để hệ thống tim và mạch máu quen với tình trạng không trọng lượng trong không gian 3 chiều.

Các bạn cứ tưởng tượng như thế này, khi tới trạm vũ trụ, một phi hành gia sẽ đảm nhiệm nhiều vai trò khác nhau: từ nhà nghiên cứu đến kỹ sư... thậm chí là thợ cơ khí. Vì vậy, năm 1992, khi tham gia khóa tập huấn tại Star City - Trung tâm Huấn luyện phi công vũ trụ của Nga, tôi đã có hàng trăm giờ học kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau; tập trung chủ yếu vào tìm hiểu các hệ thống kỹ thuật, động lực học quỹ đạo gồm: lên quỹ đạo, điều khiển, tiếp cận, ghép nối, rời quỹ đạo và hạ cánh...

Chúng tôi cũng phải liên tục ở trong tàu mô phỏng Soyuz, thực hành các thao tác bay và học cách ứng phó tốt nhất với “các tình huống bất thường” - một cụm từ bao hàm mọi thứ, từ trục trặc liên lạc, động cơ đẩy, điều khiển tư thế chậm chạp... cho đến trường hợp khẩn cấp toàn diện. Mỗi buổi học mô phỏng như vậy thường mất ít nhất là 4 tiếng đồng hồ. Nhờ luyện tập đều đặn mà chúng tôi học được cách giữ bình tĩnh và tìm ra giải pháp trong mọi tình huống dù là xấu nhất.

Ngoài ra, chúng tôi còn phải thực hiện một kế hoạch rèn luyện thể lực một cách bài bản, cẩn trọng. Do từng tham gia thi đấu thể thao nên việc này đối với tôi không có gì khó khăn, tôi luôn cố gắng đặt ra các mục tiêu để thử thách bản thân và vượt qua nó. Nhưng, có lẽ, khó khăn lớn nhất của tôi là học gấp tiếng Nga. Tôi phải học để giao tiếp với phi hành đoàn bởi vì tôi bay cùng 2 phi hành gia người Nga. Chúng tôi cần phải hiểu rõ nhau và hiểu chính xác những điều cần phải làm để tránh tất cả những sai sót có thể xảy ra.

Phi hành gia Claudie Haigneré vẫy tay chào từ tàu vũ trụ Soyuz đưa bà trở về sau sứ mệnh Andromède kéo dài 10 ngày tới ISS hồi năm 2001.

Phi hành gia Claudie Haigneré vẫy tay chào từ tàu vũ trụ Soyuz đưa bà trở về sau sứ mệnh Andromède kéo dài 10 ngày tới ISS hồi năm 2001.

PV: Vậy, lần đầu tiên bay vào vũ trụ, năm 1996, từ không gian, nhìn về Trái đất, cảm xúc của bà thế nào?

Bà Claudie Haigneré: Tôi vẫn nhớ như in lần đầu tiên bay vào vũ trụ. Khi con tàu của chúng tôi đi vào quỹ đạo, chúng tôi nín thở, bắt đầu làm quen với trạng thái gần như không trọng lượng. Lúc tàu di chuyển với tốc độ khoảng 28.000 km/h, tôi có cảm giác như đang rơi tự do.

Trái đất dần lùi xa và chúng tôi tiến vào khoảng không gian vô tận của vũ trụ. Trạm MIR - nơi chúng tôi neo tàu lại để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, ban đầu chỉ hiện lên như một chấm nhỏ nơi chân trời xa thẳm. Rồi, khi tàu chúng tôi tiến lại gần, trạm cũng lớn dần từng chút một qua ống kính quan sát. Những khối mô-đun ghép nối chồng lên nhau, dựng thành một cấu trúc khổng lồ lơ lửng giữa không gian. So với Trạm vũ trụ quốc tế (ISS), trạm MIR dĩ nhiên khiêm tốn hơn nhiều, nhưng trong mắt tôi khi ấy, cảnh tượng đã đủ kỳ vĩ khiến tôi ngỡ như mình đang trong một thước phim khoa học viễn tưởng.

Gần đến trạm MIR, vận tốc của tàu chậm dần. Qua khung cửa sổ buồng lái, mọi thứ thật tĩnh lặng và kỳ vĩ. Cái gọi là bầu trời giờ đây nằm hẳn bên dưới chúng tôi, phía trên chỉ còn khoảng không bao la vô tận của vũ trụ. Châu Phi thì nằm trên Tây Ban Nha..., tức là mọi hệ quy chiếu đã bị thay đổi hoàn toàn.

Bà Claudie Haigneré lần đầu tiên bay vào vũ trụ năm 1996.

Bà Claudie Haigneré lần đầu tiên bay vào vũ trụ năm 1996.

PV: Với chuyến bay năm 1996, bà là người phụ nữ Pháp đầu tiên lên vũ trụ và 5 năm sau, bà lại tiếp tục trở thành nữ phi hành gia đầu tiên của châu Âu đặt chân tới ISS. Bà có thể chia sẻ thêm về sự khác nhau giữa hai lần bay đó?

Bà Claudie Haigneré: Tôi nhớ là từ tháng 1/2001, tôi lại có mặt ở Star City để tham gia khóa huấn luyện cho sứ mệnh Andromede lên ISS. Lần này, tôi đảm nhiệm vai trò kỹ sư bay ở ghế bên trái của tàu vũ trụ Soyuz. Tháng 8/2001, tôi và phi hành đoàn có một tuần luyện tập tại Trung tâm Vũ trụ Johnson của NASA để làm quen với các mô hình và thiết bị mô phỏng, qua đó học cách di chuyển quanh khu vực thuộc Mỹ quản lý trên ISS. Thật tuyệt khi được làm quen với các nhân viên kiểm soát mặt đất của ISS, các phi hành gia đến từ Mỹ, châu Âu, Canada và Nhật Bản... Chúng tôi đã trò chuyện, trao đổi kinh nghiệm một cách thoải mái.

Thực tế, nhiệm vụ ở trạm MIR là chương trình hợp tác giữa Pháp và Nga, tức là hợp tác song phương. Còn sứ mệnh Andromede cũng do Nga và Pháp phối hợp tổ chức nhưng để thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học về vật lý vi trọng lực, quan sát Trái đất, khoa học sự sống và tầng điện ly tại ISS - một trạm vũ trụ quốc tế có nhiều phòng thí nghiệm cũng như nhiều trang thiết bị mới. Một điều nữa mà tôi cần nhắc đến, ISS là nơi tập hợp rất nhiều nhà khoa học, phi hành gia dày dạn kinh nghiệm đến từ nhiều quốc gia khác nhau như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Canada... Bản thân tôi thấy rằng, tại ISS, khả năng nghiên cứu của tôi được mở rộng nhiều hơn so với nhiệm vụ đầu.

PV: Vậy, bà thực hiện thí nghiệm khoa học trong không gian như thế nào? Và, những thí nghiệm trong vũ trụ đóng góp gì cho hoạt động nghiên cứu khoa học ở Trái đất?

Bà Claudie Haigneré: Như các bạn đã biết, tôi là một bác sĩ xương khớp, để tham gia nhiệm vụ trong không gian thì tôi tiến hành nghiên cứu thêm về thần kinh và tôi có đã bằng tiến sĩ về thần kinh học. Khi sống trong môi trường không trọng lượng vốn có tác động không tốt đến xương và cơ bắp, tôi đã vận dụng kiến thức ở 2 chuyên môn y khoa này để giúp phát hiện ra một số hướng điều trị mới cho các bệnh nhân loãng xương hay suy giảm cơ và cả cách quản lý cảm xúc. Ngoài ra, khi trở thành một phi hành gia, tôi còn tập trung nghiên cứu thêm về các vấn đề y sinh, sinh học tế bào, sinh học thực vật...

Về phương diện khoa học, phòng thí nghiệm vũ trụ là một môi trường duy nhất để thực hiện những thí nghiệm không thể làm được trên Trái đất. Trong thế kỷ XX, quản lý dữ liệu và khả năng phân tích từ không gian đã tiến bộ đáng kể, mở ra cơ hội lớn cho nghiên cứu khoa học và giúp con người khám phá được nhiều cách thích nghi hơn với các điều kiện môi trường khác nhau. Chẳng hạn, trên các tàu vũ trụ, chúng ta có thể tái chế được gần 90% lượng nước đã sử dụng và kết quả của nghiên cứu này giúp giải quyết những thách thức lớn của Trái đất về năng lượng, nguồn nước và môi trường.

Rồi, nhờ dữ liệu vệ tinh thu thập được, chúng ta có thể mô hình hóa, theo dõi và dự báo các hiện tượng khí hậu toàn cầu như nước biển dâng, băng tan, nhiệt độ ấm lên... Tôi nhớ lần đầu tiên bay vào vũ trụ, tôi thấy Trái đất như một quả trứng được bao bọc bởi lớp khí quyển mỏng manh. Khi đó, tôi càng ý thức hơn về việc bảo vệ hành tinh này, nơi đang duy trì sự sống của loài người. Trong chuyến bay sau, tôi lại quan sát được những thay đổi đáng lo ngại như: ô nhiễm không khí, cháy rừng Amazon, diện tích rừng bị suy giảm 15%... Những hình ảnh đó cho thấy sự cấp thiết của việc phải nâng cao khả năng khai thác công nghệ vũ trụ cũng như dữ liệu vệ tinh phục vụ dự báo thiên tai.

Bà Claudie Haigneré là nữ phi hành gia đầu tiên của Pháp bay vào vũ trụ và là nữ phi hành gia châu Âu đầu tiên trên ISS.

Bà Claudie Haigneré là nữ phi hành gia đầu tiên của Pháp bay vào vũ trụ và là nữ phi hành gia châu Âu đầu tiên trên ISS.

PV: Trở thành nữ phi hành gia đã mang đến cho bà nhiều trải nghiệm quý giá. Những kinh nghiệm này giúp bà như thế nào trong công tác hoạch định chính sách khi làm chính khách?

Bà Claudie Haigneré: Sau khi trở về từ ISS, tôi gia nhập Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) rồi đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng Nghiên cứu, Bộ trưởng Các vấn đề châu Âu, Chủ tịch điều hành của Universcience... Thực sự là việc trở thành người phụ nữ đầu tiên của Pháp bay vào vũ trụ và là nữ phi hành gia đầu tiên của châu Âu lên ISS đã cho tôi vị thế của một người được công chúng biết đến và được công nhận. Việc này giúp cho tôi tự tin hơn rất nhiều, tạo cho tôi có một sức ảnh hưởng nhất định.

Tất cả những trải nghiệm quý báu đó đã giúp tôi có một "bàn đạp" vững chắc để tiến hành các chính sách về nghiên cứu khoa học. Tôi đã dành nhiều thời gian gặp gỡ, trò chuyện với các em học sinh, sinh viên (cả nam lẫn nữ) nhằm thúc đẩy việc phổ cập kiến thức và phát triển trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật. Tôi cũng có cơ hội tham gia vào hội đồng quản trị của các công ty lớn và nhiều tổ chức giáo dục, tham gia các hoạt động ngoại giao để thúc đẩy hợp tác khoa học. Tôi thấy vui và tự hào vì mình đã có thể phát triển niềm đam mê nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo ở nhiều nơi và trên nhiều lĩnh vực.

Bà Claudie Haigneré trò chuyện với phóng viên Chuyên đề ANTG Giữa tháng - Cuối tháng.

Bà Claudie Haigneré trò chuyện với phóng viên Chuyên đề ANTG Giữa tháng - Cuối tháng.

PV: Bà đã đạt được nhiều thành tựu - từ bác sĩ, nhà khoa học, phi hành gia đến chính khách. Bí quyết nào giúp bà chinh phục từng dấu ấn trong cuộc đời, đồng thời vẫn cân bằng giữa sự nghiệp và gia đình?

Bà Claudie Haigneré: Tôi luôn tin rằng mọi nỗ lực bắt đầu từ khát vọng. Khi có khát vọng, chúng ta sẽ có niềm tin vững chắc và dám dấn thân, giúp chinh phục ước mơ và theo đuổi đam mê. Mỗi thành tựu trong đời đều khởi nguồn từ việc ước muốn đạt được, và nếu một ngày tôi không còn mơ ước gì nữa, nghĩa là tôi cũng không làm được gì thêm. Dẫu vậy, đích đến của mỗi ước mơ không chỉ là thành tựu của bản thân mà còn là sự sẻ chia, sự cho đi.

Trong cuộc sống cá nhân, tôi may mắn có một người chồng tuyệt vời, người đã luôn đồng hành và hỗ trợ tôi mọi lúc, mọi nơi. Tôi và chồng được tuyển chọn để đào tạo thành phi hành gia trong cùng một năm. Anh ấy đến từ miền Nam nước Pháp, trong khi tôi ở Paris nhưng chúng tôi đã gặp nhau trong quá trình huấn luyện và câu chuyện tình cũng bắt đầu từ đó (cười...). Tôi và anh ấy luôn chia sẻ mọi thứ bằng cách khi một người bận rộn với công việc thì người còn lại lùi về sau để hỗ trợ. Có thể nói rằng, vũ trụ đã xe duyên và khoa học dẫn lối tôi đi.

PV: Giống như câu ngạn ngữ của Việt Nam "thuận vợ thuận chồng tát Biển Đông cũng cạn"?

Bà Claudie Haigneré: (Cười...). Vâng, đúng là nếu có sự sẻ chia, thuận hòa như vậy thì khó khăn mấy cũng vượt qua được.

Bà Claudie Haigneré và chồng - phi hành gia Jean-Pierre Haigneré.

Bà Claudie Haigneré và chồng - phi hành gia Jean-Pierre Haigneré.

PV: Theo bà, trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực phát triển khoa học vũ trụ nhưng còn hạn chế về nguồn lực, đâu là yếu tố then chốt để vượt qua các thách thức?

Bà Claudie Haigneré: Đây là lần đầu tôi tới Việt Nam nhưng tôi cũng đã tìm hiểu trước về đất nước các bạn. Tôi cũng đã tới thăm Trung tâm Vũ trụ Việt Nam (VNSC) và biết rằng Việt Nam đang có nhiều chương trình hợp tác về không gian, nghiên cứu chế tạo vệ tinh nhỏ..., cùng các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực như Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội.

Theo tôi, thách thức lớn nhất hiện nay là nhiều người vẫn chưa nhận ra tầm quan trọng của việc nghiên cứu vũ trụ và còn rất nhiều người chưa biết rằng những tiện ích quen thuộc như hệ thống định vị GPS hay dự báo thời tiết đều nhờ tín hiệu truyền về từ các vệ tinh bay bên ngoài Trái đất. Vì vậy, ưu tiên hàng đầu là giáo dục và phổ biến khoa học, không chỉ cho giới trẻ mà còn cho cả phụ huynh. Khi mọi người hiểu được, họ sẽ không còn e ngại công nghệ cũng như vũ trụ.

Bên cạnh đó, muốn đi xa, chúng ta không thể đi một mình. Mọi tiến bộ trong lĩnh vực này đều cần sự hợp tác quốc tế: từ nghiên cứu - đào tạo, đến xây dựng cơ sở hạ tầng - kỹ thuật... Việt Nam đã có những bước khởi đầu mạnh mẽ, đặc biệt là trong hợp tác đào tạo và phát triển nhân lực. Tôi tin rằng, Pháp và nhiều quốc gia khác luôn sẵn sàng hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực này.

Bà Claudie Haigneré (ở giữa) và ông Jean-Pierre Haigneré (bên trái) chia sẻ trong buổi tọa đàm khoa học với chủ đề “Góc nhìn giao thoa từ vũ trụ: Hành trình, sáng tạo và hợp tác Pháp – Việt” tại Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội.

Bà Claudie Haigneré (ở giữa) và ông Jean-Pierre Haigneré (bên trái) chia sẻ trong buổi tọa đàm khoa học với chủ đề “Góc nhìn giao thoa từ vũ trụ: Hành trình, sáng tạo và hợp tác Pháp – Việt” tại Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội.

PV: Theo bà, giới trẻ Việt Nam, đặc biệt là nữ giới cần làm gì để theo đuổi khát vọng khám phá vũ trụ?

Bà Claudie Haigneré: Một phần mục đích chuyến đi lần này của tôi là truyền cảm hứng cho các bạn trẻ, những người có thể sẽ tham gia vào công tác nghiên cứu và khai thác không gian vũ trụ trong tương lai. Thêm vào đó, tôi cũng muốn tăng cường hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học của Việt Nam và Pháp, giữa giới trẻ hai nước.

Điều kiện hiện nay thuận lợi hơn rất nhiều so với thời của chúng tôi. Khi tôi và chồng tôi bay vào vũ trụ, chưa có vệ tinh, chưa có công cụ số hay mô hình hóa hiện đại nào... Nếu để đưa ra lời khuyên cho giới trẻ Việt Nam yêu khoa học vũ trụ, tôi nghĩ các bạn nên tạo lập cơ sở dữ liệu riêng, học cách phân tích dữ liệu và dấn thân vào các công việc thực tế như sản xuất vệ tinh cỡ nhỏ.

Tôi cũng muốn nhắn nhủ với các bạn trẻ rằng: hãy dám mơ ước, xây dựng con đường riêng và đừng ngần ngại mở các cánh cửa. Hãy tận hưởng hành trình học hỏi và trải nghiệm, bởi đôi khi điều quý giá nhất không chỉ là đích đến, mà chính là tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm và mối quan hệ tích lũy trên bước đường ta đi.

Tôi nhớ, khi giao lưu với sinh viên Việt Nam tại Hà Nội, chồng tôi đã nhắc đến phi công vũ trụ đầu tiên của Việt Nam và châu Á - Trung tướng Phạm Tuân. Biết đâu, trong số các bạn trẻ Việt Nam mà tôi gặp trong chuyến thăm lần này sẽ trở thành phi hành gia trong tương lai (cười...).

PV: Cảm ơn bà về cuộc trò chuyện thú vị này!

Bà Claudie Haigneré và ông Jean-Pierre Haigneré chụp ảnh lưu niệm cùng thầy trò Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội.

Bà Claudie Haigneré và ông Jean-Pierre Haigneré chụp ảnh lưu niệm cùng thầy trò Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội.

Nguồn CAND: https://cand.com.vn/emagazine/nu-phi-hanh-gia-claudie-haignere-vu-tru-da-xe-duyen-va-khoa-hoc-dan-loi-toi-di-i786167/