Óc Eo - Ba Thê hướng đến Di sản Văn hóa thế giới

Tỉnh An Giang đang tập trung thực hiện các bước cuối cùng để gửi hồ sơ đề cử Khu di tích khảo cổ Óc Eo - Ba Thê là Di sản thế giới. Nếu Khu di tích được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới, sẽ không chỉ là niềm tự hào của đất nước mà còn là sự ghi nhận của quốc tế đối với những giá trị lịch sử, văn hóa, khảo cổ của vùng đất Nam Bộ.

Dấu tích của đô thị cổ đại

Theo Ban quản lý Di tích Văn hóa Óc Eo tỉnh An Giang, Văn hóa Óc Eo là thuật ngữ khoa học để chỉ một nền văn hóa khảo cổ, hình thành và phát triển từ thế kỷ I đến thế kỷ VII hoặc có thể kéo dài đến đầu thế kỷ thứ VIII sau Công nguyên ở vùng đồng bằng hạ lưu sông Mê Kông, thuộc vùng đất Nam Bộ - Việt Nam ngày nay. Đây là nền văn hóa vật chất của vương quốc Phù Nam, một nhà nước sớm ở Đông Nam Á, có tầm ảnh hưởng rộng lớn ở khu vực và châu Á từ những thế kỷ đầu Công nguyên.

Ngược dòng thời gian trở về hơn 80 năm trước, Văn hóa Óc Eo được biết đến từ sau cuộc khai quật khảo cổ tại cánh đồng Óc Eo (thuộc thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang) do nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret thực hiện. Từ kết quả khai quật, Louis Malleret chính thức định danh tên gọi của nền văn hóa này là nền Văn hóa Óc Eo. Kể từ đó đến nay, nhiều địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long, qua thời gian, đã liên tục khám phá và phát hiện ra nhiều di tích, di chỉ thuộc nền Văn hóa Óc Eo. Nhưng tiêu biểu và quan trọng nhất vẫn là Khu Di tích Quốc gia đặc biệt Óc Eo - Ba Thê.

Khu di tích Óc Eo - Ba Thê có khoảng 40 di tích, di chỉ kiến trúc tín ngưỡng, cư trú, mộ tang…được phát hiện, thám sát, khai quật bảo tồn; đã có hàng chục ngàn hiện vật đã được thu thập từ đầu thế kỷ XX đến nay như tượng thần, đồ mỹ nghệ, trang sức, đồ dùng sinh hoạt, sản xuất, phương tiện đi lại, vật liệu kiến trúc, trang trí, đồng tiền cổ… với nhiều chất liệu và loại hình, loại thể (đá, gạch nung, gốm, gỗ, thủy tinh, đá quý, kim loại, vàng, mã não…)

Đầu tượng Phật Linh Sơn Bắc - Một trong những đầu tượng Phật hiếm hoi được phát hiện tại khu vực Óc Eo – Ba Thê có niên đại từ thế kỷ IV-VII.

Đầu tượng Phật Linh Sơn Bắc - Một trong những đầu tượng Phật hiếm hoi được phát hiện tại khu vực Óc Eo – Ba Thê có niên đại từ thế kỷ IV-VII.

TS Trương Đắc Chiến - Thành viên nhóm tư vấn xây dựng Hồ sơ đề cử Khu di tích khảo cổ Óc Eo - Ba Thê trình UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa thế giới cho biết, khu di tích Óc Eo - Ba Thê là một quần thể phức hợp bao gồm các trung tâm cư trú, kiến trúc tôn giáo, xưởng thủ công, tuyến kênh cổ và khu mộ táng phân bố từ sườn núi Ba Thê ra tới cánh đồng Óc Eo. Dựa trên các nghiên cứu khảo cổ học, đặc biệt là sơ đồ phân kỳ không - thời gian của Pierre-Yves Manguin, quá trình hình thành và phát triển của khu di tích có thể chia làm ba giai đoạn chính:

Giai đoạn I, đây là giai đoạn hình thành đô thị sớm (khoảng thế kỷ I TCN - III SCN). Cũng là thời kỳ hình thành ban đầu của khu đô thị Óc Eo - Ba Thê. Các di chỉ cư trú chiếm ưu thế, phản ánh một cộng đồng sinh sống định cư ổn định. Tầng văn hóa dày, chứa nhiều di vật gốm, gỗ, than tro... cho thấy các hoạt động cư trú, sản xuất thủ công và nông nghiệp phát triển sớm.

Giai đoạn II, là giai đoạn cực thịnh của đô thị Óc Eo - Ba Thê (khoảng thế kỷ IV - VII). Giai đoạn này chứng kiến sự bùng nổ về quy mô, mật độ di tích và tính phức hợp trong tổ chức không gian. Các kiến trúc tôn giáo và công trình kiến trúc bằng gạch - đá được xây dựng dày đặc. Cấu trúc thành - hào bao quanh “thành phố Óc Eo” xuất hiện rõ nét. Xuất hiện các loại hình mộ táng như mộ hỏa táng/mộ gạch, mộ chum.

Nhẫn Nadin Giồng Cát, niên đại thế kỷ thứ V - Hiện vật được phát hiện tại cuộc khai quật di tích Gò Giồng Cát (Khu di tích Óc Eo - Ba Thê) năm 2018.

Nhẫn Nadin Giồng Cát, niên đại thế kỷ thứ V - Hiện vật được phát hiện tại cuộc khai quật di tích Gò Giồng Cát (Khu di tích Óc Eo - Ba Thê) năm 2018.

Giai đoạn III, chuyển tiếp và biến đổi (khoảng thế kỷ VII - XII). Sau thế kỷ VII, khu di tích có những biến chuyển về chức năng và không gian. Kiến trúc trong giai đoạn này thường chồng lên lớp nền cũ, có hình thức và vật liệu mang đặc trưng tiền Angkor, với sự hiện diện của đá hoa cương và gạch tái sử dụng. Không gian "thành phố Óc Eo" xưa không còn phát triển mạnh như giai đoạn trước, thay vào đó là sự co cụm và tái cấu trúc không gian nghi lễ - cư trú quanh vùng Ba Thê, phản ánh sự chuyển giao quyền lực và ảnh hưởng chính trị - văn hóa từ Phù Nam sang Chân Lạp.

Bia đá, niên đại thế kỷ II-VII, khai quật tại Di tích Linh Sơn Bắc thuộc Khu di tích Óc Eo - Ba Thê.

Bia đá, niên đại thế kỷ II-VII, khai quật tại Di tích Linh Sơn Bắc thuộc Khu di tích Óc Eo - Ba Thê.

Cũng theo TS Trương Đắc Chiến, khu di tích Óc Eo - Ba Thê thể hiện một quá trình phát triển văn hóa liên tục và lâu dài, kéo dài từ những thế kỷ cuối trước Công nguyên đến thế kỷ XII sau Công nguyên, với hơn 1.000 năm lịch sử. Đây là minh chứng nổi bật cho sự hình thành và phát triển của một trung tâm đô thị cổ đại có tính phức hợp cao, trải qua nhiều giai đoạn mở rộng, chuyển biến và thích ứng.

Khu di tích Óc Eo - Ba Thê thể hiện một mô hình đô thị - cảng độc đáo, được hình thành và phát triển trong môi trường ven biển - ngập nước của vùng hạ lưu sông Mê Kông. Đây là một trong những ví dụ sớm nhất ở Đông Nam Á về một trung tâm quyền lực - kinh tế - tôn giáo quy mô lớn được quy hoạch và tổ chức theo bố cục hình học, gắn với hệ thống kênh đào nhân tạo và thích nghi linh hoạt với điều kiện địa hình, thủy văn đặc thù.

Trung tâm Óc Eo được bao quanh bởi một hệ thống hào - thành và kênh đào bố trí theo các trục vuông góc, tạo thành một đô thị quy hoạch theo ô bàn cờ có quy mô hiếm thấy trong khu vực Đông Nam Á cùng thời. Bên trong thành, các cụm cư trú, đền tháp, xưởng thủ công và mộ táng được phân bố thành từng cụm có chủ ý, phản ánh khả năng quy hoạch và quản lý lãnh thổ hiệu quả của một thiết chế quyền lực cao cấp. Mạng lưới kênh đào - tiêu biểu là kênh Lung Lớn - vừa đảm nhận vai trò giao thông, thoát nước, vừa kết nối đô thị với vùng cửa biển và các vùng xung quanh, tạo nên một mô hình cảng thị gắn với giao thương quốc tế.

Các hiện vật trưng bày trong Nhà Trưng bày Văn hóa Óc Eo tại An Giang.

Các hiện vật trưng bày trong Nhà Trưng bày Văn hóa Óc Eo tại An Giang.

Hội tụ những giá trị nổi bật để trở thành di sản thế giới

Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học tiêu biểu, năm 2012, Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Óc Eo - Ba Thê được xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt. Tháng 1/2022, Trung tâm di sản thế giới đã đưa Khu di tích khảo cổ Óc Eo - Ba Thê vào danh sách dự kiến lập hồ sơ di sản văn hóa thế giới. Tỉnh An Giang đang tập trung thực hiện các bước thủ tục cuối cùng lập hồ sơ đề cử và kế hoạch quản lý di sản. Phấn đấu đến trước ngày 30/9/2025 sẽ gửi bản thảo Hồ sơ đề cử; trước ngày 1/2/2026 sẽ gửi Hồ sơ đề cử chính thức cho Trung tâm Di sản thế giới.

Theo GS. TS Đặng Văn Bài - Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia, di sản văn hóa không chỉ là những gì còn lại từ quá khứ - đó còn là cội nguồn hình thành bản sắc, là cầu nối cho đối thoại giữa các nền văn minh. Trong hành trình đó, khu di tích Óc Eo - Ba Thê nổi bật như một “nút giao” quan trọng giữa các dòng chảy lịch sử, kinh tế và văn hóa khu vực. GS. TS. Đặng Văn Bài nhận định, khu di tích Óc Eo - Ba Thê hội tụ những tiềm năng to lớn để trở thành một di sản thế giới. Đó là tính đại diện cho cảng thị cổ của Đông Nam Á, là minh chứng cho sự giao lưu Đông - Tây, và là dấu ấn rõ nét của một nền văn minh vùng châu thổ có khả năng thích nghi và sáng tạo vượt bậc.

Di tích Linh Sơn Nam thuộc Khu di tích Óc Eo - Ba Thê.

Di tích Linh Sơn Nam thuộc Khu di tích Óc Eo - Ba Thê.

TS Trương Đắc Chiến - thành viên nhóm tư vấn xây dựng Hồ sơ đề cử Khu di tích khảo cổ Óc Eo - Ba Thê trình UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa thế giới cho biết, căn cứ vào các tiêu chí về giá trị nổi bật toàn cầu của di sản thế giới, Khu di tích khảo cổ Óc Eo - Ba Thê có thể đáp ứng tiêu chí: Thể hiện sự giao thoa quan trọng của các giá trị nhân văn, qua một thời kỳ hay bên trong một khu vực văn hóa của thế giới, về những phát triển trong kiến trúc, hoặc công nghệ, nghệ thuật xây dựng đền tháp, quy hoạch thành phố hay thiết kế cảnh quan. Đồng thời đáp ứng tiêu chí: Chứa đựng một minh chứng duy nhất hoặc ít nhất cũng hết sức khác biệt về một truyền thống văn hóa hay một nền văn minh hiện vẫn đang tồn tại hoặc đã diệt vong.

Bên cạnh đó, khu di tích này cũng đáp ứng tiêu chí: Một ví dụ nổi bật về hình thức cư trú truyền thống của con người, việc sử dụng đất đai hay khai thác biển cả, đại diện cho một (hay nhiều) nền văn hóa, hoặc tương tác giữa con người và môi trường, đặc biệt là khi nó đã trở nên dễ tổn thương do ảnh hưởng của những đổi thay không thể đảo ngược.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Lê Trung Hồ nhấn mạnh: “Chính quyền và nhân dân An Giang luôn xác định bảo tồn và phát huy giá trị di tích khảo cổ Óc Eo – Ba Thê không chỉ là trách nhiệm với quá khứ mà còn là hành động thiết thực cho hiện tại và tương lai. Chúng tôi cam kết sẽ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn, các tổ chức Quốc tế, các nhà khoa học để xây dựng một hồ sơ khoa học vững chắc, chân thực và thuyết phục nhằm đưa khu di tích khảo cổ Óc Eo - Ba Thê tiến gần hơn đến danh hiệu Di sản thế giới, đóng góp và kho tàng văn hóa chung của nhân loại”.

Thanh Tiến

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/oc-eo-ba-the-huong-den-di-san-van-hoa-the-gioi-10313597.html