Ông Nghè Đông Tác: Người mang khí tiết kẻ sĩ Bắc Hà thời ly loạn
Giữa bối cảnh đất nước xảy ra biến động chính trị và xâm lăng ngoại bang, ông Nghè Đông Tác - Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý vẫn giữ khí tiết thanh cao, giáo hóa hậu sinh, can gián vua khỏi sai lầm, trọn vẹn đạo lý, xứng đáng là một kẻ sĩ Bắc Hà.

Bia chỉ giới làng Đông Tác. Ảnh: Trần Siêu.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý (1795 - 1868), húy là Dưỡng, tự Tuần Phủ, hiệu Chí Đình, biệt hiệu Đông Khê, người làng Đông Tác, huyện Thọ Xương (nay là phường Kim Liên, Hà Nội). Không chỉ vì đỗ Tiến sĩ, mà bởi đức cao vọng trọng, nêu cao ý thức văn hóa, ra sức chấn hưng giáo dục mà người đương thời kính trọng gọi là “ông Nghè Đông Tác”.
Vượt nghịch cảnh để thành tài
Theo gia phả và các nguồn sử liệu, Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý sinh trưởng trong một dòng tộc danh giá và có lịch sử định cư lâu đời ở đất Thăng Long. Tương truyền, thủy tổ của ông họ Nguyễn vốn ở Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn (nay thuộc Thanh Hóa). Vào cuối đời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã rời ra phường Đông Tác khai hoang và có nghề nung đúc.
Sau này, dòng họ có Giải nguyên Nguyễn Hy Quang (1634 - 1692) đỗ khoa Sĩ vọng năm 1673. Sau hai năm làm chức Giáo thụ phủ Thường Tín, được gọi vào phủ chúa giao cho dạy dỗ các thế tử, trong đó có Trịnh Bính. Nguyễn Hy Quang làm tới chức Lang trung bộ Lại kiêm Tri bộ Hộ, trước khi mất được thăng Công khoa Đô cấp sự trung, tước Hiển Phương bá.
Tiếp theo Nguyễn Hy Quang, cụ tổ đời thứ tám là Nguyễn Trù (1668 - 1736), đỗ Hoàng giáp khoa Đinh Sửu (1697) từng làm Hữu Thị lang bộ Hình và Tế tửu Quốc Tử Giám. Cháu nội của Nguyễn Trù là Nguyễn Hữu Vọng (1762 - 1818), đỗ Sinh đồ thời Lê, được phong tước Lương Vũ bá. Ông cũng là thân sinh của Nguyễn Văn Lý.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống thi thư hiển hách, Nguyễn Văn Lý từ nhỏ đã để chí vào việc học hành. Năm 14 tuổi (1808) ông theo học Bùi Chỉ Trai, em Tham tụng Bùi Huy Bích và chịu nhiều ảnh hưởng của học phong họ Bùi. Đến năm 18 tuổi (1812) ông theo học Tiến sĩ Lê Hoàng Đạo - Đốc học Hà Nội, sức học tấn tới lên nhiều.

Chân dung ông Nghè Đông Tác Nguyễn Văn Lý.
Việc học hành đang thuận lợi thì vào năm 1817, thân mẫu Nguyễn Văn Lý bị bệnh nặng. Ông cùng em trai đêm đêm kê chiếc giường nhỏ bên cạnh để cùng chăm sóc, nghe ngóng bệnh tình của mẹ. Tháng 2 năm sau (1818) thì thân mẫu mất. Chôn cất mẹ xong, mới được vài tháng thì cha đổ bệnh, đến tháng 6 cũng qua đời.
Trong “Tự truyện”, Nguyễn Văn Lý viết: “Chỉ trong vòng có một năm mà gia đình có đến hai biến cố lớn, gia sản tổ tiên để lại có 4 mẫu ruộng bạc điền đã bán hết để lo việc tang”. Để có tiền trang trải, Nguyễn Văn Lý phải đi dạy học và việc học hành thi cử của ông cũng bị chậm lại.
Năm 28 tuổi, Nguyễn Văn Lý cưới vợ, là con gái thứ hai của Tri phủ họ Nguyễn, người Kim Lũ. Tháng 10, ông đi thi Hương nhưng chỉ trúng Nhị trường. Sau đó, ông tìm theo học Tiến sĩ Phạm Quý Thích, Đốc học Cao Huy Diệu, Tri huyện Nguyễn Trừng. Trong các vị thầy ấy, người có ảnh hưởng tới ông nhất là thầy Phạm Quý Thích.

Bản rập văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm Nhâm Thìn (1832) - khoa Nguyễn Văn Lý đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Làm quan - giúp dân - giữ tiết
Được sự khuyến khích của thầy Phạm Quý Thích, khoa thi Hương năm Ất Dậu (1825), khi 31 tuổi Nguyễn Văn Lý đỗ Cử nhân, cùng khoa với Nguyễn Văn Siêu, Hoàng Tế Mỹ, Vũ Tông Phan... Nhưng ngay trong năm 1825, thầy Phạm Quý Thích đã qua đời mà không kịp chứng kiến sự đỗ đạt, trưởng thành của học trò. Nguyễn Văn Lý khóc viếng thầy: “Hành tàng để ý y thùy hội/ Sơ văn đương niên thượng hướng luân” (ý sâu xa của lẽ hành tàng mấy ai đã hiểu phận con là trò, tới muộn, ít được gần, nay vẫn hướng tới thầy mong được luận cho rõ).
Con đường khoa cử của Nguyễn Văn Lý sau đó khá lận đận. Ông thi hỏng liền hai khóa thi Hội vào các năm Bính Tuất (1826) và Kỷ Sửu (1829). Phải tới khoa thi năm Nhâm Thìn (1832), khi đã 38 tuổi ông mới đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Văn bia đề danh Tiến sĩ cho biết: Tháng 5 vào điện thí ở giải vũ điện Cần Chánh; quan Độc quyển là Binh bộ Thượng thư Lê Văn Đức và Lễ bộ Thượng thư Phan Huy Thực; quyển của ông được vua châu phê 4 chữ “Tam giáp nhất danh” (đỗ nhất đệ tam giáp). Khoa này, triều Nguyễn lấy đỗ 8 Tiến sĩ.
Sau khi đỗ đạt, năm 1833 Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý được bổ nhiệm Tri phủ Thuận An (vùng Thuận Thành, Bắc Ninh). Không may, tháng 10 năm đó, phủ Thuận An xảy ra việc tù phạm phá ngục, dù ông đi việc quan vắng vẫn bị triều đình giáng cấp. Rồi 8 tháng sau, ông được triệu về kinh làm Viên Ngoại lang, rồi Lang trung bộ Lại.

Văn chỉ tại khuôn viên đình Trung Tự. Ảnh: Trần Siêu.
Mùa Hè năm 1838 nhân khi bị ốm, Nguyễn Văn Lý xin nghỉ về quê. Tại Hà Nội, ông cùng thân hữu như Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Siêu lập ra Văn chỉ Thọ Xương. Chính Nguyễn Văn Lý là người soạn văn bia “Thọ Xương tiên hiền từ vũ bi ký”. Ông khẳng định: “Trên thì noi theo phong độ và ý chí của tiên hiền, dưới thì khuyến khích thế hệ mai sau trau dồi tiến tới. Trong phạm vi hẹp thì trở thành các vị quân tử trong làng, các vị thầy trong xã. Mở rộng ra sẽ là tôn chúa giúp dân”.
Làm Đốc học Bắc Ninh được 7 tháng thì đầu năm 1841, Nguyễn Văn Lý được cử làm Án sát tỉnh Phú Yên kiêm Hộ lý Tuần phủ quan phòng. Tháng 8, ông được cử làm Chánh chủ khảo trường thi Gia Định.
Trong cuộc đời làm quan, Nguyễn Văn Lý bị oan ức mấy lần. Trong thời gian ở Phú Yên, có 2 lần ông bị giáng chức. Lần thứ nhất vì việc dâng xoài chậm, bộ Lễ tham hạch, bộ Lại nghị tội là trái với quy định “phạt nhẹ giáng lưu”. Năm 1844, một lái buôn ở Phú Yên ăn trộm, vu khống ông nhận hối lộ. Dù Học sĩ Vũ Phạm Khải và Án sát Nguyễn Công Vịnh xét xử đã kết luận Nguyễn Văn Lý vô tội nhưng vẫn bị cách chức, lưu lại làm các việc phụ dịch. Sau 2 năm bị phụ dịch, ông được giao làm Hàn lâm Viện Điển bạ, rồi năm 1846 làm Hành tẩu ở Nội các.
Trong thời gian làm quan, Nguyễn Văn Lý luôn quan tâm đến những việc giúp dân cứu đời, quan tâm đến việc học của sĩ tử. Ông dâng sớ xin miễn lính cho 7 người con cháu triều Lê trước; xin tha tội chết cho 10 tù nhân chịu tội tử hình, và mở cho con đường sống là cho khẩn hoang ruộng bỏ hóa, hoãn thuế 3 năm, xin thả các tù phạm người Man cho về quê quán.
Người dân Trung Quốc thời nhà Minh chạy sang Việt Nam lập làng (sau gọi là Minh hương) cũng được chu cấp, khi có việc oan khuất đều được giải quyết; thuyền buôn nhà Thanh bị mất trộm đến kêu cứu, ông cũng hết sức tìm lại cho… Những việc giúp đời như thế của ông, dân Phú Yên, dân Minh hương coi là việc ân đức đều đem vàng, bạc hàng trăm lạng tới tạ, nhưng ông không nhận, bảo rằng: “Ta chỉ để ơn lại cho dân ta mà thôi”.

Đình Trung Tự thờ - nơi mang nhiều dấu ấn của họ Nguyễn Đông Tác, thờ cụ Nguyễn Hy Quang. Ảnh: Trần Siêu.
Người thầy chấn hưng căn cốt Thăng Long
Cáo quan mấy bận nhưng đến năm 54 tuổi (1848), Nguyễn Văn Lý mới được chấp thuận cho nghỉ một thời gian. Ông về Hà Nội mở trường Chí Đình ven hồ Gươm. Thời bấy giờ, ở Hà Nội có ba ngôi trường danh tiếng, thu hút được nhiều sĩ tử là trường Hồ Đình của Vũ Tông Phan, trường Phương Đình của Nguyễn Văn Siêu, và trường Chí Đình của Nguyễn Văn Lý.
Quan điểm mở trường Chí Đình của ông là đào tạo ra những nhân tài xây dựng đất nước, chứ không chỉ là đỗ đạt làm quan. Những học trò xuất thân từ trường lớp Chí Đình đã làm rạng danh thầy và ngôi trường mang hoài bão chí hướng của kẻ sĩ Bắc Hà. Có thể kể những nhân tài xuất thân từ trường, như: Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hợp người Kim Lũ làm đến Thượng thư bộ Lại, Tổng tài Quốc sử quán, Đại thần Cơ Mật viện, Văn Minh Đại học sĩ, Phụ chính vua Thành Thái...
Cùng với việc lập trường học, ông Nghè Đông Tác còn cùng các bạn đồng môn, đồng chí hướng như Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Ngô Thế Vinh, Phạm Sĩ Ái, Lê Duy Trung, Trần Văn Vi… xây dựng trung tâm văn hóa Hà Nội. Ông góp công sức vào việc xây dựng Hội Hướng thiện ở đền Ngọc Sơn. Hội được nhượng lại chùa Ngọc Sơn, tu sửa thành đền thờ Văn Xương Đế quân, một vị thần về văn chương khoa cử. Mục đích của hội ghi rõ: “Hội Hướng thiện vốn do những người trong khoa mục thành lập. Ở thời kỳ đầu, hội chủ yếu nhằm cố gắng làm những việc đem lại lợi ích cho đời”.
Nhưng khi hội thành lập, Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý lại phải trở về kinh thành Huế nhậm chức. Ở vùng Lập Thạch được 9 tháng thì vùng này khuyết chức “Tư đạc” phủ Thường Tín, Tổng đốc Hà Ninh lúc đó là Lâm Duy Nghĩa đã tiến cử và ông được bổ chức Giáo thụ. Năm 1858 được sung chức phúc khảo trường thi Nam Định.
Khi Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng (1858), ông dâng “Mật trần kế sách đánh Tây”. Trước khi Pháp tấn công, ông còn tập trung nghiên cứu cả kinh tế và quốc phòng. Ông xin đặt viên Điền sứ để khai khẩn 3 vạn mẫu đất mới bồi ở tỉnh Nam Định và đặt 3 đồn binh để ngăn giặc từ biển vào tỉnh Hải Dương. Vua Tự Đức đã giao cho bộ Hộ và Quân thứ Hải Dương xem xét thi hành.
Năm 1859, Tổng đốc Định Tường Nguyễn Phượng Hiên tiến cử, ông lại được thăng chức Hàn lâm Tu soạn, lĩnh chức Đốc học Hưng Yên. Năm 1860, Nguyễn Văn Lý mới đến Học đường nhậm chức, lúc này học trò của ông đông tới 500 người. Tuy nhiên tình hình Bắc Hà trở nên bất ổn, nhiều người trong giới sĩ phu không đồng thuận với triều đình. Nguyễn Văn Lý là người nhiệt thành yêu nước, dù chỉ giữ chức học quan, nhưng nghe có việc nghị hòa, ông đã cùng các Giáo thụ, Huấn đạo trong hạt mình dâng sớ can ngăn.
Năm 1864, khi đang giữ chức Đốc học Hưng Yên, đúng lúc ông đang không khỏe, cần phải thuốc thang thì triều đình truyền chỉ, bút son phê “vào kinh đợi chỉ” để bói cho vua một số điều hệ trọng, cơ mật. Và để có thể tin chắc lời phán bảo của thế lực siêu nhiên, vua Tự Đức yêu cầu Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý thử nghiệm bằng việc đoán “ngày nắng ngày mưa” ngay trong cuối tháng.
Trong “Tự truyện”, Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý có dẫn kỹ chuyện này, để rồi tất cả nhằm tỉnh thức vua Tự Đức trước họa xâm lăng. Nhân thể, ông dâng tập điều trần gồm ba điều “ích nước lợi binh”. Trong triều các quan xin cho Nguyễn Văn Lý lĩnh chức Thiếu khanh sung Toản tu Sử quán, nhưng ông tỏ ý không muốn nhận.
Vừa khi ấy, tại trường thi Nam Định xảy ra chuyện. Các sĩ tử chỉ trích quan Chủ tư Ngụy Khắc Đản đi sứ Tây “hoàn thành cục diện chủ hòa”, không xứng đáng nắm vận mệnh văn chương, trương biển ngăn không cho học trò vào trường thi. Ngụy Khắc Đản lập tức tâu trình, vua xuống chỉ: “Các quan Tế tửu, Tư nghiệp, và các quan Đốc học, Huấn đạo, Giáo thụ các tỉnh bị cách lưu một bực để khiển trách”.
Tháng 3 năm 1865, Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý lấy cớ già yếu xin nghỉ. Vua Tự Đức hiểu việc cách quan lần này Nguyễn Văn Lý không có lỗi, vì vậy có sắc xuống với nội dung: “Nguyễn Văn Lý, Tiến sĩ xuất thân, 34 năm trước đây từng làm Án sát; án cách lưu lần này đại lược là xét cùng với mọi người, chiếu lệ công tội mà hoàn trở về nguyên tịch xuất thân, lòng trẫm không nỡ, nếu khai phục toàn hạng cũng chưa hợp. Vậy chuẩn cho Nguyễn Văn Lý giữ nguyên hàm Trước tác về hưu”.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý rất chú trọng giáo dục con cháu. Ông kiên trì hơn 20 năm để sưu tầm và biên soạn bộ “Thế phả” dày 418 trang, viết “Tự gia yếu ngữ”, “Đông Tác Nguyễn thị gia huấn” để dạy con cháu, giúp làng xây dựng Văn hội, Văn chỉ... Ngoài ra, ông còn để lại rất nhiều tác phẩm văn thơ. Ông nghè Đông Tác mất năm 1868, hưởng thọ 74 tuổi. Trưởng môn là Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hợp cùng các môn sinh dựng nhà thờ thầy tại làng Trung Tự.