Phản bác các luận điệu xuyên tạc đường lối ngoại giao 'cây tre Việt Nam'

Với âm mưu, thủ đoạn thâm độc, các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính trị không ngừng chống phá đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó, việc phản bác trường phái ngoại giao 'cây tre Việt Nam' luôn được chúng coi là trọng tâm. Vì vậy, việc nắm vững và hiểu sâu về cơ sở lý luận, thực tiễn của trường phái ngoại giao này là điều kiện tiên quyết để xây dựng những luận cứ khoa học, đấu tranh bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch.

Thuật ngữ ngoại giao “cây tre Việt Nam” lần đầu tiên được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 (22-8-2016). Đến Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (14-12-2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định: “Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa và phát huy truyền thống đối ngoại, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, xây dựng nên một trường phái ngoại giao đặc sắc, độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”. Điều này khẳng định nguồn gốc và đặc trưng của đường lối đối ngoại thời đại Hồ Chí Minh, thể hiện bản sắc riêng biệt của ngoại giao Việt Nam.

Từ đây, thuật ngữ ngoại giao "cây tre Việt Nam” đã trở thành một hình ảnh đặc trưng khi nói đến chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đây là sự khái quát và hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang triển khai trên cơ sở kế thừa và phát huy phương châm đối ngoại Hồ Chí Minh: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”.

Thế nhưng, các thế lực thù địch, kẻ cơ hội chính trị trong và ngoài nước luôn lợi dụng truyền thông qua các trang web tiếng Việt có máy chủ đặt ở nước ngoài, như: Việt Tân, Tiếng Dân News, RFA, BBC, VOA và các nền tảng mạng xã hội… tung ra các luận điệu chống phá thâm hiểm. Chúng cho rằng ngoại giao “cây tre Việt Nam” là một biểu hiện của hình thức vụ lợi, chỉ nhằm phục vụ cho Đảng mà bỏ qua lợi ích nhân dân. Chúng xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, rằng Việt Nam ngấm ngầm ủng hộ cho chiến tranh, quay lưng với hòa bình, “không kiên định”, “không dứt khoát”. Chúng xuyên tạc ngoại giao “cây tre Việt Nam” là lạc hậu, đường lối bị động, "cóp nhặt", “lợi dụng”; chính sách quốc phòng “4 không” là không thức thời, là lạc hậu, hẹp hòi... Từ đó, chúng lớn tiếng đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi đường lối đối ngoại, phải “có lập trường rõ ràng, phải chọn bên hợp lý”, đòi “dân chủ hóa Việt Nam”...

Đây đều là những thông tin xuyên tạc, vu khống, bịa đặt, đòi hỏi phi lý, đi ngược lại lợi ích của đất nước và nhân dân. Để vạch trần âm mưu thâm đọc, bộ mặt thật của những đối tượng này, xin đưa ra những cơ sở lý luận, thực tiễn khẳng định sự đúng đắn của đường lối đối ngoại Việt Nam và trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”.

Ảnh minh họa: Chinhphu.vn

Ảnh minh họa: Chinhphu.vn

Trước hết, về lý luận, “ngoại giao cây tre” của Việt Nam là kết tinh của quá trình nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống vẻ vang của dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mục đích của đường lối “ngoại giao cây tre” nhằm giữ vững độc lập dân tộc, ổn định chính trị-xã hội, tranh thủ các nguồn lực, đưa đất nước tiến lên, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là đường lối phù hợp với xu thế thời đại, được đông đảo quần chúng nhân dân tin tưởng, ủng hộ.

Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cho thấy, các hoạt động đối ngoại-ngoại giao luôn được coi trọng và gắn kết chặt chẽ với hoạt động quân sự.

Thời phong kiến, hoạt động ngoại giao của Việt Nam, nhất là đối với các quốc gia láng giềng luôn được coi trọng nhằm giữ yên bờ cõi, tạo sự hòa hiếu. Truyền thống tốt đẹp của ngoại giao Việt Nam là hòa bình, hữu nghị, độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích quốc gia, bản sắc văn hóa, danh dự dân tộc. Đó là nền ngoại giao linh hoạt, kết hợp hài hòa giữa tính nguyên tắc và sách lược mềm dẻo, kết hợp chặt chẽ giữa mặt trận ngoại giao, mặt trận chính trị và mặt trận quân sự. Những tinh hoa của ngoại giao Việt Nam bắt nguồn từ chiều sâu bản sắc văn hóa của dân tộc; đồng thời, là sản phẩm của một quốc gia có vị trí địa chiến lược về chính trị, kinh tế, quân sự đặc biệt quan trọng ở khu vực.

Chính sách ngoại giao của Việt Nam không chỉ phản ánh quá trình đấu tranh, phát triển của dân tộc mà còn thể hiện sự linh hoạt trong việc xây dựng và duy trì quan hệ quốc tế. Trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” ra đời là phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam và đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong lịch sử cũng như giai đoạn hiện nay.

Sau khi giành được độc lập vào năm 1945 và đặc biệt là sau ngày đất nước thống nhất năm 1975, Việt Nam đã phải đối mặt với một thế giới đầy thử thách. Trong suốt thời kỳ chiến tranh, Việt Nam đã kiên cường duy trì chính sách ngoại giao vì độc lập, hòa bình và hợp tác quốc tế.

Với tư tưởng ngoại giao chủ động, linh hoạt, mềm dẻo, kết hợp “cương với nhu” trên cơ sở giữ vững tính nguyên tắc đã giúp dân tộc ta bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; chúng ta đã kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao; giữ đúng “lễ” với “binh”, “biết mình, biết người” cả trước và sau chiến tranh, nhằm đạt mục tiêu cao nhất trong công tác - hoạt động ngoại giao Việt Nam là: Giành và giữ độc lập dân tộc, nâng cao vị thế của đất nước.

Trong giai đoạn chiến tranh, với chính sách ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt, “vừa đánh, vừa đàm”: Từ đàm phán, bảo vệ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ khi mới thành lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945; đàm phán ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 - góp phần thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đến đàm phán, ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973, tạo tiền đề giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, non sông thu về một mối. Chính sách này tiếp tục được củng cố và phát triển.

Từ năm 1990 trở về trước, trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, trong bối cảnh trật tự hai phe/hai cực, cũng như nhiều quốc gia lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, với quan niệm thế giới là môi trường tương tác của các giai cấp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quan hệ đối ngoại và ngoại giao của Việt Nam chủ yếu tập trung vào nhóm các đảng cộng sản, phong trào công nhân dân thế giới.

Từ sau khi chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô lâm vào thoái trào, trên cơ sở nhận định, đánh giá đúng đắn về thời đại và xu thế thời đại: Các quốc gia có chế độ chính trị-xã hội khác nhau hợp tác và đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình; cùng với đấu tranh giai cấp còn có hợp tác vì lợi ích… Nhạy bén, linh hoạt trước thời cuộc, Đảng đã thay đổi tư duy trong quan hệ quốc tế từ lăng kính hệ tư tưởng sang lăng kính của lợi ích giữa các quốc gia - dân tộc.

Từ sự phát triển tư duy lý luận này, hoạt động ngoại giao, hợp tác của Việt Nam ngày càng cởi mở, phong phú về phương thức hợp tác với cộng đồng thế giới trong thời kỳ đổi mới, là cơ sở hình thành quan điểm đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam.

Tiếp đó, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam dần được hoàn thiện theo thời gian, thông qua sự nhận định, đánh giá của Đảng về các xu thế lớn trên thế giới.

Trong Báo cáo chính trị Đại hội VIII, Đảng nhận định: Xu thế hòa bình, ổn định; xu thế hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại; xu thế độc lập dân tộc, chống can thiệp của nước ngoài... Từ Đại hội XI, Đảng lại bổ sung những nhận định phù hợp với xu thế thời đại và tình hình đối ngoại của các nước trên thế giới. Đảng chỉ rõ: Vai trò của toàn cầu hóa đối với xu thế vận động của thế giới được nhìn nhận đầy đủ, khách quan hơn. Đảng nhấn mạnh: Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức.

Ngày 12-7-2003, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết Trung ương 8 về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Nội dung nghị quyết lần đầu tiên xác định rõ quan niệm về đối tác, đối tượng. Nghị quyết nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng hai khía cạnh đối tác và đối tượng trong cùng một mối quan hệ đối ngoại. Sự phát triển tư duy này trở thành cơ sở để Đảng chủ động, đánh giá chính xác hơn trong quá trình hoạch định và triển khai quan hệ đối ngoại của đất nước. Đây là bước tiến lớn trong quá trình hoàn thiện lý luận của Đảng về đối ngoại, thể hiện sự thích ứng, nhạy bén với thời cuộc trong bối cảnh Việt Nam dành nhiều quan tâm tới lợi ích phát triển, tăng cường đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại, nhất là với các đối tác lớn, các đối tác còn có khác biệt với lợi ích quốc gia - dân tộc với Việt Nam.

Đến Đại hội XI của Đảng, lần đầu tiên nêu mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được đề cập và nhấn mạnh: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.

Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XII và Đại hội XIII, Đảng tiếp tục được khẳng định và xác định rõ tầm quan trọng của mục tiêu đối ngoại vì lợi ích quốc gia - dân tộc: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

Có thể thấy, việc xác định các mục tiêu đối ngoại của Đảng luôn dựa trên nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời rất sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và diễn biến tình hình thế giới, khu vực, phù hợp với từng đối tác, nội dung hợp tác cụ thể.

Đến Đại hội XIII, Đảng tiếp tục phát triển chiều sâu tư duy về đối ngoại, đề cập tới vấn đề “vai trò tiên phong của đối ngoại”. Nhu cầu phát triển trong nước và diễn biến tình hình ngoài nước là cơ sở để Đảng hình thành quan điểm: Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước.

Như vậy, quá trình hình thành trường phái “ngoại giao cây tre” của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng là quá trình phát triển liên tục. Đây là bước kế thừa truyền thống coi trọng đối ngoại, ngoại giao của ông cha ta trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước; cũng là tiếp thu tinh hoa trong các trường phái ngoại giao lớn của nhân loại; phù hợp với xu thế thời đại và các trường phái ngoại giao trên thế giới, trong đó trục trung tâm của ngoại giao, đối ngoại là: Tạo lập môi trường hòa bình, ổn định; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định và khai thác hiệu quả môi trường hòa bình, ổn định cho các mục tiêu bảo đảm an ninh, phát triển và nâng cao vị thế của đất nước.

Trên cơ sở 3 nhiệm vụ quan trọng này, công tác đối ngoại, ngoại giao của Việt Nam trong lĩnh vực quốc phòng được triệt để thực hiện theo nguyên tắc “4 không”. Việt Nam đã kiên trì, kiên quyết thực hiện nguyên tắc này trong các vấn đề quốc tế, được dư luận đánh giá cao. Thế nên, từ những căn cứ trên khẳng định chắc chắn rằng, ngoại giao “cây tre Việt Nam” là một biểu hiện sinh động phù hợp với xu thế thời đại, xu thế chung của loài người tiến bộ, mang lại lợi ích nhân dân; nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đặc biệt là trong mục tiêu kiến tạo hòa bình. Đó hoàn toàn không phải là hành vi, hành động mờ ám, vụ lợi, “mơ hồ, không rõ ràng”, “không đi theo số đông”; chỉ nhằm phục vụ cho Đảng hoặc ngấm ngầm ủng hộ cho chiến tranh, quay lưng với hòa bình, “không kiên định”, “không dứt khoát”, “lạc lõng giữa thời cuộc” như các thế lực thù địch đã từng lên tiếng vu khống.

Về thực tiễn, đường lối ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã góp phần quan trọng nâng cao vai trò, vị thế đất nước, đưa Việt Nam hội nhập, hợp tác và ngày càng phát triển.

Trong sự nghiệp kiến thiết, xây dựng đất nước, nhất là trong công cuộc đổi mới gần 40 năm qua, ngoại giao đã góp phần phá bao vây, cấm vận, chủ động triển khai đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, nỗ lực duy trì môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ phá thế bị bao vây, cấm vận, chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Cho đến nay, Việt Nam đã mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với tất cả nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, từ đó tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của quốc tế đối với công cuộc đổi mới. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao chính thức với 194 quốc gia thành viên Liên hợp quốc.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài. Từ một nước có nền kinh tế kế hoạch tập trung, bị bao vây, cấm vận, đến nay Việt Nam đã trở thành nước có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa liên kết kinh tế sâu rộng với 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA) và mạng lưới liên kết kinh tế sâu rộng với hầu hết các nền kinh tế quan trọng trên thế giới.

Đối ngoại đóng vai trò tiên phong trong giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Với tinh thần là bạn, đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế, cục diện đối ngoại của Việt Nam với các nước được duy trì ổn định, đóng góp tích cực vào quá trình bảo vệ và xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác với các nước có đường biên giới liền kề, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, góp phần củng cố hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Việt Nam luôn nêu cao nguyên tắc hòa bình, hợp tác, tích cực đàm phán với các nước có liên quan kiểm soát tốt bất đồng, tìm giải pháp cơ bản, lâu dài cho các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực và trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới. Trong nhiều vấn đề quốc tế quan trọng, tiếng nói, sáng kiến và cách thức giải quyết có lý, có tình trên tinh thần bình đẳng, hòa hiếu và nhân văn của nước ta nhận được sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng quốc tế.

Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng; được bạn bè quốc tế tin tưởng, tín nhiệm đề cử đăng cai, tổ chức nhiều hội nghị quốc tế lớn và đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu. Chuyển mạnh từ "tham gia tích cực" đến "đóng góp xây dựng, định hình luật chơi", Việt Nam đã từng bước nâng tầm tham gia thúc đẩy các tiến trình, các thể chế đa phương dựa trên mục tiêu chung là hòa bình, ổn định, an ninh và hợp tác phát triển, trên cơ sở luật pháp quốc tế và nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi giữa các bên liên quan. Việt Nam đã hai lần đảm nhận thành công vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; là chủ nhà của Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên; ba lần giữ cương vị Chủ tịch ASEAN; đăng thành công nhiều hội nghị đa phương quan trọng của thế giới như Hội nghị Cấp cao APEC 2006 và Tuần lễ Cấp cao APEC năm 2017,… Hoạt động đối ngoại quốc phòng, an ninh ngày càng đi vào chiều sâu, đạt nhiều thành quả nổi bật, góp phần củng cố, nâng cao tiềm lực đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Uy tín, vị thế quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định và nâng lên tầm cao mới. Các đảng, chính quyền các nước đều khẳng định tôn trọng thể chế chính trị của Việt Nam. Các đảng, các nước, không phân biệt hệ thống chính trị, khuynh hướng chính trị ngày càng đánh giá cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đều mong muốn củng cố và mở rộng quan hệ với Đảng. Các hoạt động đối ngoại đa phương của trụ cột đối ngoại Đảng tiếp tục là cầu nối quan trọng để Đảng thể hiện trách nhiệm quốc tế, tăng cường trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm cầm quyền và tham chính với các chính đảng. Thông qua đối ngoại đa phương chính đảng, quan hệ với các nước có thêm điều kiện được củng cố, gia tăng phương thức hợp tác tạo cơ sở chính trị quan trọng cho trụ cột ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Đảng liên tục được Hội nghị quốc tế các đảng chính trị châu Á (ICAPP) bầu làm thành viên Ủy ban Thường trực. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là thành viên tích cực trong Nhóm Công tác, cơ chế điều hành của Cuộc gặp quốc tế các đảng cộng sản và công nhân (IMCWP).

Quá trình từng bước chuyển từ hội nhập kinh tế sang hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng đã nâng cao vị thế Việt Nam trong hợp tác khu vực và toàn cầu, thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước bị tàn phá bởi chiến tranh, nghèo nàn, lạc hậu, bị bao vây, cấm vận trong thời gian dài, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình với tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đầu người đạt khoảng 4.700 USD năm 2024, tăng gần 60 lần so với năm 1986. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt trên 6,5%/năm, thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Quy mô nền kinh tế đạt khoảng 476,3 tỷ USD năm 2024, đứng thứ 35 thế giới, tăng hơn 95 lần so với năm 1986. Nền tảng kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Lạm phát được kiểm soát chỉ còn khoảng 4%/năm từ mức “phi mã” 3 con số của giai đoạn đầu Đổi mới.

Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2024 đạt 786,29 tỷ USD; xuất siêu 9 năm liên tiếp; thuộc nhóm 20 nước có quy mô thương mại hàng đầu thế giới. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng trong thu hút đầu tư nước ngoài; năm 2024 thu hút được trên 38,23 tỷ USD, vốn thực hiện đạt khoảng 25,35 tỷ USD, lọt vào nhóm 20 nước dẫn đầu thế giới về thu hút FDI. Ngoại giao kinh tế được đẩy mạnh, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; đã ký kết 17 hiệp định thương mại tự do với hơn 60 quốc gia, trong đó có nhiều nền kinh tế lớn. Tình hình chính trị - xã hội ổn định, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội là một trong những điểm sáng và là thế mạnh của Việt Nam trong một thế giới đầy biến động hiện nay.

Như vậy, với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, kiên định, bản lĩnh và tỉnh táo trước những tình huống, diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế, “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”, hoạt động ngoại giao Việt Nam đã nhận diện chính xác đi đôi với tranh thủ tốt thời cơ, phát huy tối đa thế và lực mới của đất nước, nền ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”; kiên định về nguyên tắc, mục tiêu chiến lược, linh hoạt về sách lược, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, với phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay và đang sẵn sàng vươn mình trong kỷ nguyên mới. Tất cả những điều này khẳng định sự đúng đắn và những đóng góp quan trọng của đường lối ngoại giao dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây cũng là những minh chứng hùng hồn bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, vu khống lạc lõng của các thế lực thù địch, những kẻ luôn thâm thù với sự phát triển của đất nước.

-----------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb CTQG-ST, Hà Nội.

2. Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQG-ST, Hà Nội.

3. Nguyễn Phú Trọng (2023), Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, Nxb CTQG-ST, Hà Nội.

NGỌ VĂN CÔNG - ĐINH LÊ MINH - PHẠM ĐỨC HUY

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/cuoc-thi-viet-vung-buoc-duoi-co-dang/phan-bac-cac-luan-dieu-xuyen-tac-duong-loi-ngoai-giao-cay-tre-viet-nam-824150